Quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Đức Thành...

Ngày cập nhật: 21/07/2016
Quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Đức Thành - Người khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định giải quyết khiếu nại của chủ tịch UBND TP Hạ Long

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
----------------*----------------

QUAN ĐIỂM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO ÔNG NGUYỄN ĐỨC THÀNH –NGƯỜI KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CỦA CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ HẠ LONG


Kính thưa HĐXX phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh

Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy-thuộc Công ty luật TNHH Hoàng Long (Đoàn luật sư TP. Hà nội) xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện ông Nguyễn Đức Thành cụ thể như sau:


I-TÓM TẮT QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

Ngày 15/4/2015 ông Nguyễn ĐứcThành nộp đơn khởi kiện đối với Quyết định số 474/QĐ-UBND  ngày 16/4/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long (quyết định số 474) tại Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long.
Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về thi hành Luật tố tụng hành chính và Nghị quyết số 01 ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định số 474 từ đó ra Quyết định thụ lý số 16/2015/HCST ngày 19/5/2015 về việc khởi kiện quyết định hành chính.
Ngày  22/10/2015 Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nêu trên, tại Bản án số 30/2015/HCST đã tuyên xử: bác yêu cầu khởi kiện  Quyết định hành chính số 474 ngày 16.3.2015 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành.
Ngày 5/11/2015 ông Thành nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án  sơ thẩm yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật theo hướng chấp nhận kháng cáo, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.
Căn cứ điều 190 Luật tố tụng hành chính quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh có thẩm quyền xét xử lại toàn bộ nội dung vụ án.
Căn cứ điều 189 Luật tố tụng hành chính về bổ sung chứng cứ mới, ngày 27/4/2016 ông Thành đã bổ sung chứng cứ mới liên quan đến nội dung quyền sử dụng đất của Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở năm 1984 và có đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm đi xác minh thu thập chứng cứ nếu cần thiết. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm đã không thực hiện yêu cầu này. Đây là tình tiết mới bởi tài liệu chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chỉ đề cập đến nội dung giấy phép xây dựng của Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở năm 1984.

II- NHỮNG SAI PHẠM CỦA BẢN ÁN SƠ THẨM SỐ 30/2015/HCST NGÀY 22/10/2015 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG

Tại phần thủ tục, căn cứ điểm a khoản 1 điều 204 Luật tố tụng hành chính tôi-người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện đã trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo và các căn cứ cho việc kháng cáo để chứng minh việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm không đúng quy định pháp luật. Cụ thể không đúng quy định tại khoản 4 điều 164 Luật tố tụng hành chính quy định đối với bản án sơ thẩm như sau: “trong phần nội dung vụ án và nhận định của Tòa án phải ghi yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, đề nghị của người khởi kiện, nhận định của Tòa án ; điểm, khoản, điều của văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án căn cứ để giải quyết vụ án. Trong nhận định của Tòa án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không  chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự…” 
Sau đây là những sai phạm của bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long cụ thể:
2.1.Trong phần nhận định của bản án sơ thẩm không có sự phân tích những căn cứ để đưa ra quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thành:
          - Bản án sơ thẩm đã chỉ liệt kê các văn bản của các cơ quan chức năng liên quan đến vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất từ năm 1995 giữa nguyên đơn ông Nguyễn Đức Thành với các bị đơn là bà Nguyễn Thị Lương, Nguyễn Thị Tuyên –người lấn chiếm 240m2 đất mà ông Thành được UBND thị xã Hòn Gai cấp theo tiêu chuẩn gia đình liệt sỹ ngày 3/4/1984 để làm căn cứ kết luận:  “Từ những căn cứ ở trên, HĐXX thấy: Ông Nguyễn Đức Thành khởi kiện Quyết định hành chính số 474/QĐ-UBND ngày 16/3/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long về việc giải quyết khiếu nại hủy bỏ văn bản 1998/UBND ngày 27/5/2014 của UBND TP. Hạ Long là không có căn cứ pháp luật nên không được chấp nhận”. 
Những “căn cứ ở trên” thể hiện tại  phần “Xét thấy” trang 5,6,7 bản án sơ thẩm đã liệt kê các văn bản được phát hành trong quá trình Tòa án các cấp giải quyết vụ án dân sự từ khi khởi kiện (năm 2006) cho đến nay (đang bị tạm đình chỉ) gồm:
- Văn bản số 353 ngày 8/10/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long đề nghị UBND thành phố Hạ Long cho ý kiến về giá trị pháp lý của Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 6/4/1984 do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành.  
-Văn bản số 4625 ngày 24/11/2009 của Phòng Tài nguyên và Môi trường trả lời văn bản số 353 của Tòa án thành phố Hạ Long theo chỉ đạo của UBND thành phố Hạ Long xác định Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai cấp có giá trị là một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 điều 50 của Luật đất đai.
-Văn bản số 296 ngày 27/8/2012 của UBND phường Hà Tu báo cáo quá trình sử dụng đất của ông Nguyễn Đức Thành.
-Văn bản số 86 ngày 30/7/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đề nghị UBND thành phố Hạ Long hỏi về giá trị pháp lý của Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 6/4/1984 do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành liên quan đến nội dung ghi ở mặt trước “giấy phép này sau 06 tháng mà không sử dụng đất và xây dựng nhà ở thì không còn giá trị”.  
- Văn bản số 366 ngày 7/9/2012 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố trả lời văn bản số 86 của Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh đối với phần hỏi liên quan đến nội dung ở mặt sau Giấy phép.
-Văn bản 286 ngày 6/5/2014 của Phòng Tài nguyên và Môi trường báo cáo UBND thành phố về giải quyết đơn của ông Thành liên quan đến văn bản số 366 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố.
-Văn bản số 1998 ngày 27/5/2014 của UBND thành phố Hạ Long trả lời đề nghị của ông Thành giải thích văn bản 366 khẳng định sau 06 tháng không sử dụng đất và xây dựng nhà ở nên Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 6/4/1984 do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành không còn giá trị.
Bản án sơ thẩm chỉ trích dẫn (khi trích dẫn lại phiến diện, cắt xén không toàn câu, toàn ý), không phân tích làm rõ kể cả khi có sự mâu thuẫn giữa các văn bản của cùng 1 cơ quan ban hành (ví dụ văn bản số 4625 và văn bản số 336), từ đó đưa ra lập luận (các lập luận của bản án sơ thẩm đối với các đoạn trích dẫn từ các văn bản trên cũng không hề gắn đến bất cứ điều luật nào đang có hiệu lực pháp luật để xác định tính hợp pháp của các văn bản trích dẫn nêu trên) nên việc lấy các trích dẫn này  làm căn cứ đưa ra nhận định: “giấy phép về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai nếu người sử dụng đất không sử dụng trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày cấp thì không có giá trị” từ đó bác yêu cầu khởi kiện của ông Thành là trái với quy định của pháp luật. 
2.2. Bản án sơ thẩm đã có sai lầm trong áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Tuy trong phần quyết định bản án sơ thẩm có đưa ra điểm, khoản, điều của văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án căn cứ để giải quyết vụ án cụ thể tại phần Quyết định đã viện dẫn điều 6, khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003 để áp dụng cho nhận định: giấy phép sử dụng đất của ông Thành không còn giá trị vì sau 06 tháng kể từ ngày cấp ông Thành không xây dựng nhà. Ngoài ra không viện dẫn bất kỳ điều luật nào của Luật khiếu nại để xác định tính hợp pháp về trình tự thủ tục thời hiệu ban hành của quyết định hành chính bị khởi kiện.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm vận dụng điều 6, khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003 cũng không đúng vì không hề có nội dung “ nếu sau 06 tháng mà không sử dụng thì không có giá trị”. 
Trích nguyên văn:
Điều 6. Quản lý nhà nước về đất đai
1. Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai.
2. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai bao gồm:
a) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
b) Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính;
c) Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
d) Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
đ) Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất;
e) Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
g) Thống kê, kiểm kê đất đai;
h) Quản lý tài chính về đất đai;
i) Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản;
k) Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; 
l) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
m) Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
n) Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
3. Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả.
Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; 
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
Việc áp dụng không đúng quy định pháp luật trong giải quyết vụ án nêu trên thể hiện bản án sơ thẩm đã nhầm lẫn quan hệ pháp luật trong việc giải quyết vụ án cụ thể là đã giải quyết quan hệ pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất chứ không phải quan hệ pháp luật hành chính có đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.
2.2. Nhận định của bản án sơ thẩm là không phù hợp với các tình tiết khách quan khác có trong hồ sơ vụ án.
Tuy Bản án sơ thẩm nhận định giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành đã không còn giá trị vì sau 06 tháng kể từ ngày cấp không sử dụng đất để xây dựng nhà ở. Nhưng trong hồ sơ vụ án chưa có quyết định nào của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi lại giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở của ông Thành cũng như thu hồi diện tích 240m2 đất của ông Thành vì lý do “không sử dụng đất” theo quy định của Luật đất đai năm 2003.
Trích luật
“Điều 38. Các trường hợp thu hồi đất
Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;
3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;
b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;
11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
Điều 44. Thẩm quyền thu hồi đất
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được uỷ quyền”.
Vì giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở được cấp năm 1984 chưa bị thu hồi và diện tích đất 240m2 được cấp theo giấy phép này cũng chưa có quyết định thu hồi nên ông Thành vẫn là người sử dụng đất có 1 trong các loại giấy tờ cấp trước ngày 15/9/1993 và không thể bị tước bỏ quyền này. Đây là chân lý không thể thay đổi.
 Do đó quyết định bác yêu cầu khởi kiện xin hủy Quyết định số 474 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long là trái pháp luật và không phù hợp với các tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án. 
2.3. Bản án sơ thẩm đã có sai lầm trong áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Tuy trong phần quyết định bản án sơ thẩm có đưa ra điểm, khoản, điều của văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án căn cứ để giải quyết vụ án cụ thể tại phần Quyết định đã viện dẫn điều 6, khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003 để áp dụng cho nhận định: giấy phép sử dụng đất của ông Thành không còn giá trị vì sau 06 tháng kể từ ngày cấp ông Thành không xây dựng nhà. Ngoài ra không viện dẫn bất kỳ điều luật nào của Luật khiếu nại để xác định tính hợp pháp về trình tự thủ tục thời hiệu ban hành của quyết định hành chính bị khởi kiện.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm vận dụng điều 6, khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003 cũng không đúng vì không hề có nội dung “ nếu sau 06 tháng mà không sử dụng thì không có giá trị”. 
Trích nguyên văn:
Điều 6. Quản lý nhà nước về đất đai
1. Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai.
2. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai bao gồm:
a) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
b) Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính;
c) Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
d) Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
đ) Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất;
e) Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
g) Thống kê, kiểm kê đất đai;
h) Quản lý tài chính về đất đai;
i) Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản;
k) Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; 
l) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
m) Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
n) Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
3. Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả.
Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; 
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
Việc áp dụng không đúng quy định pháp luật trong giải quyết vụ án nêu trên thể hiện bản án sơ thẩm đã nhầm lẫn quan hệ pháp luật trong việc giải quyết vụ án cụ thể là đã giải quyết quan hệ pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất chứ không phải quan hệ pháp luật hành chính có đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn có sai phạm nữa đó là: không xem xét đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện đối chiếu vào Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành về các vấn đề: thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Chính vì sai phạm này đã làm cho bản án sơ thẩm mang tính chất của dân sự nhiều hơn là bản án hành chính.

III- NHỮNG CĂN CỨ CHỨNG MINH TÍNH KHÔNG HỢP PHÁP CỦA QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH BỊ KHỞI KIỆN

Tôi sử dụng hai tiêu chí để chứng minh tính không hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 474 là: 
-Tiêu chí đánh giá sự không hợp pháp về nội dung (cụ thể trái Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15//5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai). Tiêu chí này đã được đề cập ở phần trên và sẽ được phân tích và chứng minh ở tại mục B phần này.
-Tiêu chí đánh giá sự không hợp pháp về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 474 (cụ thể là trái với trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại ngày 11/11/2011 của Quốc hội, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điề`u của Luật khiếu nại, Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.
A- Quyết định số 474  được ban hành không phù hợp với Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại.
Quyết định số 474  của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long-bản chất là quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Thành (lần đầu) đối với văn bản số 1998/UBND ngày 27/5/2014 của UBND thành phố Hạ Long, nên phải là sản phầm của kết quả quá trình giải quyết khiếu nại tuân thủ nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại theo luật định.
Nếu đối chiếu vào pháp luật mà việc giải quyết khiếu nại không đúng thì Quyết định giải quyết khiếu nại số 474 phải bị hủy bỏ bởi quyết định của Tòa án.
Bản án sơ thẩm đã không hề vận dụng các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại để xem xét đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện như vậy là có vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tôi chứng minh như sau:
3.1.Tóm tắt quá trình khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với đơn khiếu nại.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án có thể tóm tắt quá trình khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với đơn khiếu nại của ông Thành trước khi ông Thành nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính đến Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long. 
Xuất phát từ sự việc: 
-Ngày 7/9/2012 Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hạ Long ban hành văn bản số  366 do ông Đào Nam Thành chức vụ Phó trưởng phòng ký gửi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh phúc đáp công văn số 86/CV-VKS-P5 đề nghị UBND TP. Hạ Long “cho biết đến thời điểm hiện nay giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984 do UBND thị xã Hòn gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành nêu trên còn giá trị pháp lý không?” Văn bản này có nội dung: “ Quan điểm của Phòng TN và MT thành phố: Từ những cơ sở nêu trên, giấy phép số 257 do UBND thị xã Hòn Gai cấp ngày 6/4/1984 cho gia đình ông Thành nhưng do không sử dụng nên không còn cơ sở pháp lý, sau 6 tháng (kể từ ngày được cấp). Phòng TNMT thành phốHạ Long xin phúc đáp để Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh xem xét giải quyết”.
Vì công văn này không gửi cho ông Thành cho nên đến tháng 3 năm 2014 ong Thành mới được biết nên ngày 3/3/3014 ông Thành có đơn gửi UBND thành phố Hạ Long đề nghị làm rõ nội dung về công văn số 366 và trả lời quyền sử dụng đất theo giấy phép xây dựng số 257 do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho gia đình liệt sỹ Nguyễn Đức Vượng. Cần lưu ý đây không phải là đơn khiếu nại đối với văn bản số 366 theo quy định của Luật khiếu nại.
Sở dĩ ông Thành có đơn đề nghị UBND thành phố Hạ Long làm rõ về nội dung công văn số 366 vì trước đó Phòng TNMT cũng đã có văn bản số 4652 ngày 29/11/2009 do ông Nguyễn Xuân Trường chức vụ Phó trưởng phòng ký gửi Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND TP. Hạ Long về việc xác minh quyền sử dụng đất theo đề nghị của Tòa án thành phố liên quan đến giấy phép xây dựng số 257 ngày 6/4/1984 của UBND thị xã Hòn Gai (nay là TP. Hạ Long) cấp cho ông Nguyễn Đức Thành “là 1 trong 12 loại giấy tờ hợp lệ về đất ở được UBND tp. Hạ Long công nhận và là 1 trong các giấy tờ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003. Do đó tại thời điểm hiện nay giấy phép xây dựng trên là một trong các giấy tờ hợp lệ để làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở”.
Lý do ông Thành không khiếu nại đối với văn bản số 366 vì văn bản này không bác bỏ văn bản trước đấy số 4652 và nội dung của 2 văn bản khác nhau: nội dung của văn bản 4652 trả lời câu hỏi của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long với tính chất là quyết định cấp đất và có giá trị là 1 trong các giấy tờ về sử dụng đất quy định tại khoản 1 khoản 2 điều 50 Luật đất đai làm căn cứ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. Còn nội dung của văn bản 366 trả lời câu hỏi của VKS tỉnh Quảng Ninh có tính chất là giấy phép xây dựng nhà ở nếu sau 6 tháng kể từ ngày cấp (ngày 6/4/1984) mà không xây dựng thì giấy phép này (về xây dựng) không có giá trị có nghĩa là nếu xây nhà thì phải xin phép xây dựng lại chứ không được sử dụng lại giấy này.
Trong quá trình tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, ông Thành đã cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh vấn đề này. 
Nhưng UBND thành phố Hạ Long đã có văn bản số 1998/ UBND ngày 27/5/2014 Về việc giải quyết đơn của ông Nguyễn Đức Thành trú tại tổ 9 khu 3 phường Bãi Cháy do ông Trần Quốc Minh-chánh văn phòng UBND thành phố Hạ Long ký trả lời đơn đề nghị của ông Thành với nội dung: tuy xác định giấy này là 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai nhưng do ông Thành không sử dụng nên giấy này không còn giá trị sau 6 tháng kể từ ngày 6/4/1984.
Nhận định như trên là trái với Luật đất đai vì giấy này chưa bị thu hồi hoặc bị hủy bỏ bởi quyết định của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên vẫn còn giá trị như là 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất. Đó là lý do ngày 30/5/2014 ông Thành gửi đơn khiếu nại đối với văn bản 1998 đến Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long yêu cầu hủy bỏ văn bản này vì có nội dung trái quy định của Luật đất đai. 
         Căn cứ  khoản 2 điều 1 Luật khiếu nại quy định: “ Khiếu nại là việc công dân…. theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan… có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính…của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước …khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” thì văn bản số 1998 của UBND thành phố Hạ Long là quyết định hành chính của UBND thành phố Hạ Long.
Căn cứ khoản 1 điều 18 Luật khiếu nại quy định về  Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện “ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình”. Nên Quyết định số 474 ngày 16/3/2015 do ông Phạm Hồng Hà -Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long ký là Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu .

Căn cứ khoản 2 điều 33 Luật khiếu nại quy định về  khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính như sau: “ Hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Vì Quyết định số 474 là quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại, Nghị định số 75 hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, Thông tư số 07 của Thanh tra Chính phủ quy định chi tiết việc giải quyết đối với khiếu nại quyết định hành chính nên việc xem xét đánh giá tính hợp pháp của quyết định này phải căn cứ vào các quy định nêu trên. Bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật do không áp dụng Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại để  xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện.
Theo quy định tại điều 4 Luật khiếu nại thì việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật cụ thể là phải đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Luật khiếu nại. Nếu không đúng quy định thì quyết định này không hợp pháp và phải bị hủy bỏ.
3.2. Những sai phạm về trình tự, thủ tục, thời hạn trong việc giải quyết khiếu nại.
Căn cứ điều 3 của Thông tư số 07/2013/TT ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính quy định về Nguyên tắc giải quyết khiếu nại như sau:  “Việc giải quyết khiếu nại phải bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời và đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định của pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”.
Việc giải quyết khiếu nại để làm căn cư ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 474 không được Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long ban hành theo đúng luật cụ thể:
a) Sai phạm trong thụ lý khiếu nại:
+Thể hiện thứ nhất: Sau khi ông Thành biết được nội dung của văn bản số 366 của Phòng Tài nguyên và Môi trường trả lời Viện kiểm sát nhân dân tỉnh  Quảng Ninh. Ngày 3/3/2014 ông Thành gửi đơn đến UBND thành phố Hạ Long tiêu đề là Đơn đề nghị hỏi về giá trị pháp lý của giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở mà ông được cấp năm 1984. Đơn ngày 3/3/2014 của ông Thành chỉ là đơn đề nghị chứ không phải đơn khiếu nại đối với Công văn 366 của Phòng Tài nguyên và Môi trường. 
Do đó việc UBND thành phố Hạ Long ban hành văn bản 1998 với nội dung giải quyết khiếu nại đối với đơn đề nghị của ông Nguyễn Đức Thành là trái với Luật khiếu nại về thẩm quyền quy định tại điều 17 và 18 vì: Đơn ngày 3/3/2014 của ông Thành chỉ là đơn đề nghị chứ không phải đơn khiếu nại đối với Công văn 366 của Phòng Tài nguyên và Môi trường. Gỉa sử là đơn khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết lần đầu phải là Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường. 
Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long chỉ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại của ông Thành liên quan đến Công văn số 366 chỉ xuất hiện trong 2 trường hợp: 1) Nếu sau khi Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường ban hành quyết định giải quyết khiếu nại mà ông Thành vẫn khiếu nại và 2) nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà không được giải quyết. Nhưng trong trường hợp này ông Thành không gửi đơn khiếu nại đến Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường nên đáng ra UBND thành phố Hạ Long phải hướng dẫn ông Thành thực hiện quyền khiếu nại theo đúng quy định của Luật khiếu nại chứ không được thụ lý giải quyết vì không đúng thẩm quyền.
+Thể hiện thứ hai là sai phạm trong thụ lý giải quyết đơn khiếu nại lần đầu: 
Theo hồ sơ vụ án thể hiện: sauk hi UBND thành phố Hạ Long ban hành văn bản số 1998 với nội dung: giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai cấp cho ông Nguyễn Đức Thành không còn giá trị do sau 06 tháng kể từ ngày cấp ông Thành không sử dụng đất,  ngày 30/5/2014 ông Nguyễn Đức Thành đã  gửi đơn khiếu nại đối với văn bản số 1998 của UBND thành phố Hạ Long.
Đơn khiếu nại của ông Thành về 2 nội dung: 1)Khiếu nại văn bản 1998 ngày 27/5/2014 của UBND thành phố Hạ Long và 2) Khiếu nại công văn số 366 ngày 7/8/2012 của Phòng Tài nguyên môi trường. 
Theo Thông báo số 758/TB-UBND ngày 29/8/2014 về việc Thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu do ông Nguyễn Thành Đức –phó Chánh văn phòng UBND thành phố Hạ Long ký có nội dung: UBND thành phố Hạ Long đã nhận đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành trú tại tổ 9 khu 3, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long  với nội dung khiếu nại và yêu cầu thu hồi văn bản số 1998 ngày 27/5/2014 của UBND thành phố Hạ Long và văn bản số 366 ngày 7/8/2012 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Hạ Long.
Thông báo nêu trên là trái với Luật khiếu nại.
- Trái với điều 18 về thẩm quyền: Như phân tích ở trên nội dung khiếu nại đối với văn bản của Phòng TN và MT không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND thành phố. Và Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long chỉ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với văn bản số 1998 chứ không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với văn bản số 366 (vì thuộc thẩm quyền giải quyết của Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường).
- Vi phạm về thời hạn thông báo thụ lý khiếu nại: Căn cứ  điều 27  Luật khiếu nại quy định “trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đơn khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết”. 
Theo khoản 1 điều 5 của Thông tư số 07 quy định: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại quyết định hành chính, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai phải thụ lý giải quyết”. 
Thông báo số 758 nêu trên thể hiện việc thụ lý giải quyết đã bị quá thời hạn luật định 3 tháng 24 ngày  (đơn của ông Thành là ngày 30/5/2014). 
-Người ký thông báo thụ lý không đúng thẩm quyền:  Theo điều 27 quy định người ký thông báo phải là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Do thông báo này được ký bởi ông Nguyễn Thành Đức là người không có thẩm quyền nên coi như Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long chưa có Thông báo thụ lý thì chưa có căn cứ để tiến hành các bước tiếp theo (như xác minh, kết luận, ra quyết định được).
 -Trái với khoản 2 điều 14 về quyền và nghĩa vụ của người giải quyết khiếu nại lần đầu thì việc để ông Nguyễn Thành Đức ký Thông báo số 758 thể hiện Chủ tịch Phạm Hồng Hà không thực hiện nghĩa vụ của mình-với tư cách là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu .
b) Qúa trình giải quyết khiếu nại có những sai phạm sau:
+Không tiến hành thủ tục kiểm tra lại quyết định hành chính bị khiếu nại sau khi thụ lý khiếu nại theo quy định tại điều 6 của Thông tư số 07. Điều này quy định như sau:
“1. Sau khi thụ lý khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
2. Nội dung kiểm tra lại bao gồm:
a) Căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính
b) Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính
c) Nội dung của quyết định hành chính
d) Trình tự, thủ tục ban hành, thể thức và kỹ thuật trình bày quyết định hành chính
đ) Các nội dung khác (nếu có).
3. Sau khi kiểm tra lại, nếu thấy khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính là đúng thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu ra quyết định giải quyết khiếu nại ngay”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Thông tư số 06 quy định về việc ban hành quyết định giải quyết khiếu nại như sau:
“ Căn cứ quy định của pháp luật, kết quả xác minh nội dung khiếu nại, kết quả đối thoại (nếu có), người giải quyết khiếu nại ban hành quyết định giải quyết khiếu nại”.
Nhưng theo hồ sơ vụ án thể hiện có sai phạm trong quá trình thực hiện thủ tục xác minh nội dung khiếu nại và thủ tục đối thoại. Chứng minh như sau:
 - Có sai phạm trong việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại. 
Điều 4  Luật khiếu nại quy định về nguyên tắc giải quyết khiếu nại phải “khách quan”. Theo quy định tại khoản 1 điều 7 của Thông tư số 06 “ Người giải quyết khiếu nại tự mình xác minh hoặc giao cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý của mình tiến hành xác minh nội dung khiếu nại”.
 Theo hồ sơ thể hiện:  Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long Phạm Hồng Hà ra Quyết định số 2551/QĐ-UBND ngày 29/8/2014 về việc giao nhiệm vụ cho Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố chủ trì, phối hợp với Thanh tra thành phố tiến hành xác minh nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành trú tại tổ 9 khu 3 phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long với nội dung khiếu nại và yêu cầu thu hồi văn bản số 1998 và văn bản số 366 để tham mưu cho UBND thành phố giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Việc giao nhiệm vụ xác minh khiếu nại vốn là nghĩa vụ của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long cho Phòng Tài nguyên và Môi trương là không khách quan vì nguồn gốc phát sinh việc khiếu nại ông Thành là văn bản số 366 của Phòng Tài nguyên và Môi trường. Chính Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan ban hành 2 văn bản về cùng một nội dung (là văn bản số 4625 và văn bản số 366 cung cấp ý kiến về giá trị pháp lý của giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở có nội dung mâu thuẫn với nhau). UBND thành phố Hạ Long ban hành văn bản 1998 căn cứ vào nội dung của văn bản 366 này nên ông Thành mới có đơn khiếu nại văn bản số 1998. Nên việc UBND thành phố Hạ Long ban hành Quyết định giải quyết số 474 dựa trên báo cáo kết quả xác minh của Phòng Tài nguyên và Môi trường là không đảm bảo khách quan. 
- Không tiến hành các thủ tục xác minh nội dung khiếu nại theo quy định tại điều 11 Thông tư số 07 ( Làm việc trực tiếp với người bị khiếu nại), điều 12  (Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng).
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án tôi không thấy có Biên bản làm việc giữa Phòng Tài nguyên và Môi trường-người được giao nhiệm vụ xác minh khiếu nại  làm việc với Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long –người bị khiếu nại và Phòng Tài nguyên và Môi trường cũng không thu thập thêm thông tin, tài liệu  bằng chứng mà vẫn sử dụng các tài liệu có trước đây.
Vì văn bản 1998 có liên quan đến 2 văn bản số 4625 và số 366 mâu thuẫn nhau của Phòng Tài nguyên và Môi trường nên cơ quan này cũng được xác định là người bị khiếu nại nên  phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu liên quan để chứng minh tính hợp pháp của văn bản số 366. Nhưng do được giao nhiệm vụ chủ trì giải quyết khiếu nại nên Phòng Tài nguyên và Môi trường đã không phải thực hiện nghĩa vụ này.
-Không thực hiện thủ tục đối thoại –Điều 30 Luật khiếu nại quy định đối thoại  là thủ tục quan trọng trong quá trình xác minh khiếu nại và kết quả đối thoại cũng là 1 trong các căn cứ để ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.
Điều 21 của Thông tư số 06 quy  định về tổ chức đối thoại như sau:
“1. Các trường hợp đối thoại
a) Trong quá trình giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, người giải quyết khiếu nại lần đầu tổ chức đối thoại nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau. 
2. Thành phần tham gia đối thoại, nội dung đối thoại
a) Thành phần tham gia đối thoại gồm: Người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh nội dung khiếu nại, người khiếu nại hoặc người đại diện, người được ủy quyền, luật sư, trợ giúp viên pháp lý của người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.
Người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan biết thời gian, địa điểm, nội dung đối thoại.
b) Nội dung đối thoại: Người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh khi đối thoại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, bổ sung thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến khiếu nại và yêu cầu của mình.
3. Việc đối thoại được lập thành biên bản, ghi rõ thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, nội dung, ý kiến của những người tham gia, những nội dung đã được thống nhất, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và có chữ ký của các bên. Biên bản được lập thành ít nhất ba bản, mỗi bên giữ một bản. Biên bản đối thoại thực hiện theo Mẫu số 14-KN ban hành kèm theo Thông tư này”.
Quyết định 474 được ban hành dựa trên hai biên bản đối thoại ngày 29/9/2014 và ngày 31/10/2014 do Phòng Tài nguyên và Môi trường chủ trì. Do Phòng Tài nguyên và Môi trường là người chủ trì đối thoại nên không phải tham gia với tư cách là người bị khiếu nại để làm rõ các vấn đề mà tôi khiếu nại nên kết quả đối thoại của hai biên bản này không hợp pháp vì trái điều 30 Luật khiếu nại nên quyết định 474 cũng là không hợp pháp. 
Mặt khác ông Thành đã có khiếu nại về nội dung 2 cuộc họp này vì thiếu các đương sự: cụ thể là thiếu những người ký các văn bản (ông Trần Quốc Minh người ký văn bản 1998), ông Đào Nam Thành người ký văn bản 366, ông Lại Ngọc Lam người ký văn bản 296) đều vắng mặt nên không đối thoại không thể thực hiện được. Vì kết quả đối thoại là 1 trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại nên việc Phòng Tài nguyên và Môi trường không thực hiện đúng quy định của đối thoại nên 2 biên bản đối thoại
Sau khi ông Thành có đơn khiếu nại và yêu cầu đối thoại theo đúng điều 27 Luật khiếu nại thì UBND thành phố Hạ Long đã có văn bản số 4259 ngày 3/11/2014 yêu cầu Phòng Tài nguyên và Môi trường phải tiến hành đối thoại lại đảm bảo đúng thành phần và nội dung theo đúng Luật khiếu nại làm căn cứ tham mưu cho UBND thành phố ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Nhưng Phòng Tài nguyên và Môi trường không thực hiện mà ra Văn bản số 100 ngày 10/2/2015 báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại của ông Thành cho UBND thành phố Hạ Long để làm căn cứ ban hành Quyết định số 474 ngày 16/3/2015. Quyết định này là không hợp pháp vì căn cứ vào các kết quả đối thoại trái quy định của Luật khiếu nại.
- Trái với khoản 11 điều 2 và điểm g khoản 2 điều 31 thì sau khi xác minh người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải có kết luận nội dung khiếu nại. Và kết luận nội dung khiếu nại phải là 1 trong các căn cứ để ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Nhưng tại Quyết định số 474 không hề có nội dung: căn cứ vào kết luận nội dung khiếu nại quy định tại điểm g khoản 2 điều 31 Luật khiếu nại nên quyết định này là không hợp pháp.
+ Vi phạm thời han giải quyết khiếu nại lần đầu.
- Điều 28 Luật khiếu nại quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày kể từ ngày thụ lý, trường hợp phức tạp thì không quá 45 ngày. (đối với vùng sâu vùng xa thì không quá 60 ngày).  Nhưng Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 474 ban hành ngày 16/3/2015 là quá thời hạn luật định  7 tháng 13 ngày = 223 ngày (tính từ ngày thụ lý là 29/8/2014). 

B- Quyết định số 474 có nội dung trái pháp luật đó là Luật đất đai.

Trên cơ sở nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì có căn cứ để chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thành vì Quyết định hành chính bị khởi kiện không hợp pháp về nội dung bởi bất cứ một quyết định hành chính nào được ban hành cũng phải tuân thủ các quy định về mặt nội dung. Quyết định hành chính số 474 ngày 16/3/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long đã giữ nguyên phần nội dung của văn bản số 366 ngày 7/8/2012 của Phòng Tài nguyên và Môi trường và văn bản số 1998 ngày 27/5/2014 của chính UBND thành phố Hạ Long cho rằng Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai, Ban quản lý công trình công cộng thị xã Hòn Gai cấp ngày 3/4/1984, tuy là 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003, nhưng căn cứ nội dung ghi tại trang 3 của giấy này, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở nêu trên (ngày 6/4/1984), gia đình ông Thành không xây dựng nhà để ở và không sử dụng đất nên giấy phép này không còn giá trị.
Nội dung nêu trên của Quyết định 474 là trái pháp luật về đất đai của Nhà nước ta qua các thời kỳ. Cụ thể trái với Nghị định số 47/HĐCP  ngày 15/3/1972 của Hội đồng Chính phủ về ban hành Điều lệ tạm thời về việc lựa chọn địa điểm công trình và quản lý đất xây dựng (đây là văn bản pháp luật có hiệu lực khi ban hành Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở vào năm 1984 (thời điểm trước khi đạo luật về đất đai đầu tiên được ban hành vào năm 1987) và Luật đất đai năm 2003 (thời điểm ban hành văn bản số 366 và số 1998), năm 2013 (thời điểm ban hành Quyết định số 474). Bởi vì Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở cấp năm 1984 cho ông Thành vừa là quyết định cấp đất công để xây dựng nhà ở vừa là giấy phép xây dựng. Điều này thể hiện ở trên tài liệu này cụ thể như sau:
-Nội dung thứ nhất ở mặt phía trong có tiêu đề “Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở” ghi ngày 3/4/1984 có con dấu của hai cơ quan có thẩm quyền là UBND thị xã Hòn Gai và Ban công nghiệp của thị xã Hòn Gai thể hiện việc cấp đất cho ông Thành theo tiêu chuẩn gia đình chính sách là theo phân cấp của UBND tỉnh Quảng Ninh cấp 240m2 đất công tại Dốc Khế, thị trấn Hà Tu phù hợp với điều 18 và điều 19 Nghị định 47 năm 1972. Việc cấp đất là theo phân cấp số 328/QĐ –UB ngày 18/7/1977 của UBND tỉnh Quảng Ninh-là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đất để sử dụng vào việc xây dựng nhà ở, Nghị quyết ngày 29/6/1977 của Hội đồng nhân dân khóa X về việc quản lý sử dụng đất công và xây dựng nhà ở theo đơn đề nghị của ông Thành. Ngày giao đất là ngày 3/4/1984 do ông Vũ Đình Lân –phó chủ tịch UBND thị xã Hòn Gai với ông Trịnh Kiểm –đại diện Ban công nghiệp của thị xã Hòn Gai ký. Ngoài ra còn có chữ ký của bà Nguyễn Thị Liền –cán bộ của Ban công nghiệp thị xã người trực tiếp lập hồ sơ nghiên cứu về đo đất trên thực địa.
Trong phần này có sơ đồ thửa đất và vị trí thửa đất với các tứ cận, tọa độ, mốc cao, địa giới rõ ràng phù hợp với quy định tại điều 9 Nghị định số 47 chính vì vậy đã xác định vị trí thửa đất thuộc thửa 31 và một phần thửa 54 (cụ thể: 218,1m2 thuộc thửa 31 và 21,9m2 thuộc thửa 54), tờ số 53 bản đồ địa chính lập năm 2000 tọa lạc tại tổ 11, khu 5 phường Hà Tu, thành phố Hạ Long) do Trung tâm tài nguyên và môi trường thuộc Sở địa chính của tỉnh Quảng Ninh đo vẽ. Nếu trong sơ đồ không thể hiện cụ thể tọa độ, mốc giới, địa giới thì không thể xác định được vị trí thửa đất hiện nay.  Hiện nay toàn bộ diện tích 240m2 của ông Thành đã bị các hàng xóm (là bà Nguyễn Thị Lương chiếm 136,2m2  và bà Nguyễn Thị Tuyên chiếm 103,8m2 vào năm 2002) để xây dựng nhà kiên cố trái phép như hiện nay.
Về giá trị pháp lý nội dung này thể hiện là 1 trong các loại giấy tờ về sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 theo quy định của điểm a khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 và cũng là điểm a khoản 1 điều 100 Luật đất đai năm 2013. Theo quy định tại điều 23 của Nghị định 47 thì chỉ có UBND tỉnh Quảng Ninh mới có thẩm quyền thu hồi đất của ông Thành. 
Đối chiếu vào Luật đất đai hiện hành ban hành năm 2013 để chứng minh quyết định số 474 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long có nội dung trái pháp luật về đất đai như sau:
Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì việc thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hạ Long. Cho đến nay chưa hề có cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở năm 1984 và cũng không có bất cứ biên bản nào của UBND phường Hà Tu xác định ông Thành có hành vi vi phạm những điều ghi trong giấy này nên việc thu hồi đất (nếu có) cũng không có căn cứ để thu hồi.
-Nội dung thứ hai ở mặt bên ngoài có tiêu đề “ Giấy phép xây dựng” mang số 257 ngày 6/4/1984 có ghi: Họ và tên: Nguyễn Đức Thành, khu Dốc Khế, thị trấn Hà Tu. Bản chất của nội dung này là giấy phép xây dựng đối với diện tích 240m2.  Theo quy định tại điểm a điều 21 của Nghị định 47 thì “sáu tháng sau khi được cấp giấy phép dùng đất mà đất chưa dùng để xây dựng thì người có đất không có quyền sử dụng nữa ...sau một năm muốn dùng đất đó để xây dựng thì phải xin phép lại”. Quy định này chỉ liên quan đến việc xây dựng chứ không thể hiểu như quyết định số 474 (cũng như nội dung công văn 366 và văn bản 1998) là sau 06 tháng kể từ ngày 6/4/1098 nếu ông Thành không xây dựng nhà ở thì giấy này không có giá trị như là giấy tờ về sử dụng đất theo quy định của điểm a khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 và cũng là điểm a khoản 1 điều 100 Luật đất đai năm 2013.
Căn cứ điều 64 về các trường hợp thu hồi đất do người sử dụng đất vi phạm pháp luật, điều 65 về các trường hợp người sử dụng đất trả lại đất quy định trong Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 vì ông Thành không thuộc các trường hợp bị thu hồi diện tích 240m2 được UBND thị xã Hòn Gai cấp năm 1984 tại Dốc Khế, Hà Tu nên ông Thành vẫn là người sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích 240m2 nay là thửa tại khu 5 phường Hà Tu do bà Nguyễn Thị Lương, Nguyễn Thị Tuyên chiếm dụng xây dựng nhà trái phép. 
Căn cứ điểm a khoản 2 điều 66 Luật đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình thì cho đến nay diện tích đất này cũng không có quyết định thu hồi đất của UBND thành phố Hạ Long.
Những người đang ở trái phép trên đất cũng không có bất cứ một giấy tờ nào về việc sử dụng đất chỉ có ông Thành có giấy tờ về việc sử dụng đất do UBND thị xã Hòn Gai cấp năm 1984 cho đến nay vẫn còn hiệu lực, chưa bị thu hồi, hủy bỏ.
Tóm lại việc quyết định 474 áp dụng điều luật tại khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 để cho rằng giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai cấp (theo ủy quyền của UBND tỉnh Quảng Ninh) cho ông Nguyễn Đức Thành tuy là 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất, nhưng do ông Thành không sử dụng đất để xây dựng nhà ở sau 06 tháng kể từ ngày cấp nên nay không còn giá trị, là vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật và đó là tiêu chí để đánh giá tính không hợp pháp của quyết định này và phải bị hủy bỏ.

IV- ĐỀ NGHỊ CỦA LUẬT SƯ
Căn cứ vào phân tích nêu trên xác định việc ông Nguyễn Đức Thành kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là có căn cứ.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ xác định Quyết định số 474 ngày 16/3/2015 của UBND thành phố Hạ Long là không hợp pháp về thẩm quyền ( đối với công văn số 366) và trình tự, thủ tục, ngoài ra có nội dung trái quy định Luật đất đai năm 2013 (như viện dẫn ở trên).
Căn cứ vào quá trình thẩm vấn tại phiên tòa phúc thẩm đã chứng minh việc giải quyết của bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Thành là không đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ vào thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm quy định tại khoản 2 điều 205  Luật tố tụng hành chính.
Tôi đề nghị HĐXX sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu hủy quyết định số 474 của UBND thành phố Hạ Long vì quyết định của bản án sơ thẩm không đúng quy định của pháp luật.
Bản quan điểm luật sư này đã được trình bày tại phiên tòa phúc thẩm tại 
                   
TP. Hạ Long, ngày 27 tháng 5 năm 2016.
                       
 Luật sư
 Phan Thị Hương Thủy

lawvietnam