Ngày cập nhật: 16/11/2015
Nhân buổi Tọa đàm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam và Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” do Đoàn luật sư TP. Hà Nội tổ chức ngày 13/9/2015 tại Học viện Tư pháp.
Thứ nhất: Cần thiết
phải đưa vào dự thảo BLTTHS về giải thích 1 số khái niệm.
Tại điều 4 dự thảo về giải thích từ
ngữ (là điều mới) tuy có giải thích 1 số từ ngữ nhưng theo tôi vẫn chưa đầy đủ
cần bố sung thêm về giải thích các khái niệm như:. Bào chữa là gì và nội hàm
của quyền bào chữa vì lý do:
-Quyền bào chữa đã được ghi nhận tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm
2013: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa”) nhưng trong Hiến pháp không định nghĩa thế nào là “quyền
bào chữa”.
- Tại dự thảo có đưa 1 chương mới (chương VII) với tiêu đề “Bào chữa” và tại điều 67 dự thảo quy
định về Người bào chữa thì cũng chỉ quy định “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa và được cơ
quan có thẩm quyền cấp Giấy đăng ký bào chữa-khoản 1” và liệt kê “những người nào được trở thành người bào
chữa” (khoản 2) chứ cũng không có định nghĩa cụ thể.
nên trong BLTTHS cần có định nghĩa về quyền bào chữa và nội hàm
của quyền bào chữa làm cơ sở hình thành các chế định về người bào chữa và các
thiết chế cần thiết bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội được thi hành
trên thực tế.
Ngoài ra một số khái niệm khác cũng
cần giải thích trong BLTTHS như: tố
tụng hình sự ( là gì và thời điểm bắt đầu, kết thúc) vì liên quan đến
thời điểm người bào chữa được tham gia thực hiện quyền hiến định của mình (quy
định tại điều 127 dự thảo); bí mật
điều tra (là gì bao gồm những tiêu chí gì để tránh xung đột pháp luật cụ
thể khoản 2 điều 128 BLTTHS. (Điều này quy định Người bào chữa có nghĩa vụ “a)
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác
định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo;c) Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ”…;).
Thứ hai: Đóng góp ý
kiến cho Chương VII: Bào chữa
(i)
Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa quy định tại điều 128 dự thảo.
Trích nguyên văn dự
thảo:
Điều 128. Quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa (sửa đổi, bổ sung)
“1. Người bào chữa có
quyền:
b) Gặp, hỏi người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Có mặt khi lấy lời
khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm
quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can. Sau khi người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai xong thì người
bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can;
d) Có mặt trong những
hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
đ) Đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi
cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của
Bộ luật này;
e) Xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa;
g) Đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch,
người dịch thuật; đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế;
h) Đề nghị tiến hành
một số hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này, đề nghị mời người làm
chứng, mời Điều tra viên và triệu tập người tham gia tố tụng khác;
i) Thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa theo quy định
của Bộ luật này;
k) Đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật; yêu cầu;
l) Đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định
lại, định giá lại;
m) Đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa kể từ khi
kết thúc điều tra;
n) Tham gia hỏi, tranh
luận tại phiên toà;
0) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
p) Kháng cáo bản án,
quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.
2. Người bào chữa có
nghĩa vụ:
a) Sử dụng mọi biện
pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị
buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo;
c) Giúp người bị buộc
tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
d) Không được từ chối
bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do
chính đáng;
đ) Tôn trọng sự thật;
không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật;
e) Có mặt theo giấy
triệu tập của Toà án; trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy
định tại Điều 130 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát.
g) Không được tiết lộ bí
mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng
tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cá nhân;
h) Không được tiết lộ
thông tin về người bị buộc tội mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa,
trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản; không được sử dụng thông tin về
người bị buộc tội mà mình biết được trong khi thực hiện việc bào chữa vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
3. Người bào chữa làm
trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy đăng
ký bào chữa, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Các đóng góp cụ thể của tôi đối với điều này như sau:
- Bổ sung thêm điểm a như sau: “Quyền được cấp giấy chứng nhận đăng ký bào chữa”- vì đây là điều
kiện cần thiết để người bào chữa tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự để thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật này.
-Điểm c, d khoản 1: đề nghị thay thế cụm
từ “có mặt” thành “tham gia”
- Điểm c: đề nghị sửa như sau: “Tham gia khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can. Được quyền hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can sau khi người có thẩm
quyền tiến hành lấy lời khai xong. Được quyền có ý kiến vào Biên bản lấy lời
khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can”. Quy định cụ thể như trên sẽ tạo
điều kiện thực hiện quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vì biên bản hỏi
cung là 1 trong những tài liệu được thẩm tra xem xét đánh giá tại phiên tòa.
- Điểm d: đề nghị sửa như sau: “ Tham gia trong những hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật
này; được quyền đưa ra đề nghị, được quyền có ý kiến vào các Biên bản về hoạt
động điều tra”.
- Điểm g khoản 2: đề nghị làm rõ khái niệm “bí mật điều tra”. Theo tôi chỉ những tài liệu nào có đóng dấu
“mật” thì mới được coi là bí mật điều
tra.
- Điểm h khoản 2: đề nghị làm rõ khái niệm “thông tin về người bị buộc tội”
và phạm vi các đối tượng được tiết lộ thông tin này (có bao gồm những người đại
diện theo pháp luật của người bị buộc tội hay không). Theo tôi quy định này là
mơ hồ và chung chung và là rào cản cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ quy
định tại điểm a, b khoản 2 điều này nếu không làm rõ thì nên bỏ.
(ii) Về đối tượng yêu cầu người bào chữa cho người bị buộc tội
(điều 129).
Điều 129. Lựa chọn
người bào chữa (sửa đổi, bổ sung)
“1. Người bào chữa do
người bị buộc tội, người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của họ
lựa chọn.
2. Trường hợp người bị
bắt, người bị tạm giữ có yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền
đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị tạm giam phải lập biên bản ghi
lại yêu cầu nhờ người bào chữa của họ và chuyển ngay biên bản đó cho người bào
chữa mà họ nhờ; nếu họ không nêu đích danh người bào chữa thì biên bản này được
chuyển cho người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của họ để những
người này nhờ người bào chữa.
3. Trong trường hợp
người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách thông báo
ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ người bào
chữa.
4. Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận từ cấp huyện trở lên có
quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên
của tổ chức mình”.
Đóng góp cụ thể của
tôi:
-Khoản 1 điều 129: Theo tôi cần mở rộng đối tượng yêu cầu người
bào chữa để đảm bảo tính nhân đạo của BLTTHS vì theo quy định tại khoản 1 điều
129 là hẹp (chỉ bó hẹp trong phạm vi “người đại diện theo pháp luật hoặc người
thân thích…), quy định này sẽ không đảm bảo quyền bào chữa cho những người bị
buộc tội thuộc đối tượng tứ cố, vô thân, không có người thân thích hoặc có
nhưng bị từ bỏ nên theo ý kiến của tôi sửa đổi khoản 1 điều 129 là: bất cứ
người nào cũng có quyền yêu cầu người bào chữa cho người bị buộc tội.
(iii) Về các trường hợp bắt buộc chỉ định người bào chữa (điều
130).
Điều 130. Chỉ định
người bào chữa (sửa đổi, bổ sung)
“1. Trong những trường hợp
sau đây nếu người bị tội, người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của
họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về
tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt cao nhất là hình phạt tù chung thân,
tử hình;
b) Người bị buộc tội
có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm
thần hoặc là người chưa thành niên.
2. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người
bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:
a) Đoàn luật sư
phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa;
b) Trung tâm trợ giúp
pháp lý cử người trợ giúp pháp lý để bào chữa cho người thuộc diện được trợ
giúp pháp lý;
c) Đề nghị Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử Bào chữa viên để bào
chữa cho thành viên của tổ chức mình”.
Đóng góp cụ thể của tôi:
-Điểm a Khoản 1 điều 130: Theo tôi cần sửa đổi như sau: “ Trong những trường hợp sau đây nếu người bị
tội, người đại diện theo pháp luật, người thân thích của họ hoặc không có ai mời
người bào chữa cho người bị buộc tội thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về
tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt mức cao nhất là 15 năm trở lên, hình
phạt tù chung thân, tử hình;)
(iv) Về thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (điều 131)
Điều 131. Thay đổi
hoặc từ chối người bào chữa (mới)
“1. Những người có quyền
từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa:
a) Người bị buộc tội;
b) Người đại diện theo
pháp luật của người bị buộc tội;
c) Người thân thích
của người bị buộc tội.
Mọi trường hợp thay
đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội,
trừ hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 130 của Bộ luật này.
2. Trong trường
hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 130 của Bộ luật
này, người bị buộc tội và người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích
của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
Trường hợp thay đổi
người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác được thực hiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 130 của Bộ luật này.
Trường hợp từ chối
người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản ghi
nhận việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội và chấm dứt việc chỉ
định người bào chữa”.
Đóng góp cụ thể vào
khoản 1 điều này:
Theo tôi để tránh trường hợp người bị buộc tội bị bắt giam thì
nói không mời luật sư (luật sư chỉ được cơ quan công an thông báo chứ không cho
gặp người bị bắt) nhưng sau khi ra tù hoặc tại phiên tòa thì họ nói đấy không
phải là ý muốn đích thực của họ nên đoạn cuối khoản1 điều 131 cần bổ sung thêm
như sau:
“Trường hợp từ chối người
bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản ghi nhận việc
từ chối người bào chữa của người bị buộc tội với sự có mặt của người bào chữa”.
(v) Về giấy đăng ký người bào chữa (điều 132)
Điều 132. Cấp, thu hồi
Giấy đăng ký người bào chữa (mới )
“1. Trong mọi trường hợp
tham gia tố tụng, người bào chữa phải có Giấy đăng ký người bào chữa.
2. Khi đề nghị cấp
Giấy đăng ký người bào chữa, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau:
a) Luật sư xuất trình
các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật luật sư;
b) Người đại diện theo
pháp luật của người bị buộc tội xuất trình bản sao giấy chứng minh nhân dân có
chứng thực và xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với
người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân
dân xuất trình bản sao giấy chứng minh nhân dân có chứng thực và văn bản cử Bào
chữa viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận;
d) Trợ giúp viên pháp
lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước và thẻ Trợ giúp viên pháp lý hoặc văn bản cử của Đoàn
luật sư và hoặc thẻ Luật sư.
3. Trong thời hạn 6
giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị bắt, 12 giờ đối với trường hợp bào
chữa cho người bị tạm giữ, 24 giờ đối với trường hợp bào chữa cho bị can, bị
cáo, kể từ khi nhận được đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, cấp giấy Đăng ký người bào chữa; nếu
từ chối cấp Giấy đăng ký người bào chữa thì phải có văn bản nêu rõ lý do.
4. Cơ quan có thẩm
quyền tố tụng từ chối cấp giấy Đăng ký người bào chữa, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 67 của Bộ luật này;
b) Người bị buộc tội
thuộc trường hợp chỉ định tại Điều 130 của Bộ luật này từ chối người bào chữa.
4. Giấy đăng ký người
bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng, trừ các trường hợp
sau:
a) Người bị buộc tội
từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa;
b) Người đại diện theo
pháp luật của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 130 của Bộ
luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa;
5. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thu hồi Giấy đăng ký bào chữa khi thuộc một trong những
trường hợp sau:
a) Khi phát hiện người
bào chữa thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 67 của Bộ
luật này, Điều 9 Luật Luật sư;
b) Vi phạm pháp luật
khi tiến hành bào chữa”.
Đóng góp cụ thể của
tôi trong trường hợp vẫn giữ quy định phải có giấy đăng ký người bào chữa.
+Về tên gọi “ Giấy đăng ký người bào chữa” (theo
BLTTHS hiện hành thì có tên gọi: giấy chứng nhận người bào chữa).
Theo quan điểm của tôi có 2 phương án:
-Vì tên gọi chỉ là
hình thức nên gọi là giấy đăng ký bào chữa hay giấy chứng nhận người bào chữa
cũng được vì đều có cùng nội dung là cơ sở pháp lý để người bào chữa thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS nên giữ như dự thảo là “Giấy đăng ký người bào chữa”.
-Ngoài ra theo tôi
cũng có thể kết hợp hai cách gọi là: Giấy
chứng nhận đăng ký người bào chữa vì bản chất của giấy này bao gồm 2
thủ tục: thủ tục chứng nhận (thể hiện sự công nhận từ phía cơ quan có thẩm quyền
đối người được cấp giấy) và thủ tục đăng ký (thể hiện người được cấp giấy đã
đăng ký để được công nhận quyền bào chữa).
+Về các giấy tờ yêu
cầu người bào chữa (quy định tại điểm b khoản 2): bỏ quy định bản sao và có
chứng thực mà chỉ cần bản pho to.
+Về thời gian cấp: Tôi
đề nghị là phải cấp ngay nếu không cấp ngay thì thời gian tối đa theo quy định
tại điều 3 điều này.
(vi) Về hình thức thông báo cho người bào chữa
(điều 133)
Điều 133. Trách nhiệm
thông báo cho người bào chữa (mới)
“1. Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải báo trước cho người bào chữa biết thời gian, địa điểm
tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ
luật này.
2. Trường hợp người
bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước mà không có
mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp quy định tại Điều
288 của Bộ luật này”.
Theo tôi để đảm bảo cho người bào chữa tham gia hoạt động tố
tụng một cách kịp thời cần phải quy định rõ trong luật (khoản 1 điều này) bằng
các hình thức như truyền thống (qua thư bưu điện, điện thoại) hoặc bằng phương
tiện điện tử theo Luật giao dịch điện tử ( email, fax)\
(vii) Về quy định người bào chữa gặp người bị buộc tội (điều
134).
Điều 134. Gặp người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam (mới)
“1. Để được gặp người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì người bào chữa phải xuất
trình Giấy đăng ký bào chữa, thẻ luật sư, thẻ trợ giúp pháp lý hoặc giấy chứng
minh nhân dân.
2. Cơ quan quản lý
người bị bắt, bị tạm giữ; bị can, bị cáo đang bị tạm giam phải phổ biến nội
quy, quy chế của nhà tạm giữ, trại tạm giam và yêu cầu người bào chữa chấp hành
nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người bào chữa vi phạm các quy định về việc
gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử
lý theo pháp luật”.
+ Đóng góp cho điều
này: Để đảm bảo quyền bào
chữa và quyền con người theo tôi cần bổ sung vào khoản 1 điều này nội dung: “thời gian gặp không hạn chế và có quyền gặp
riêng người bị buộc tội”.
Thứ ba: Về thủ tục
tranh tụng trong xét xử hình sự:
Theo quan điểm của tôi tranh tụng trong tố tụng hinh sự bao gồm
hai phần: phần xét hỏi và phần tranh luận.
(i)
Thủ tục xét hỏi (Mục
V)
Điều 304. Trình tự xét hỏi (sửa đổi, bổ sung)
“1. Hội đồng xét xử phải xác
định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án, từng người
theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét hỏi.
2. Khi xét hỏi từng người,
chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm sau đó đến Kiểm sát viên, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa
cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm
sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định.
3. Khi xét hỏi, Kiểm sát
viên, người bào chữa, Hội đồng xét xử có thể đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu
để chứng minh và xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án.
4. Theo điều hành của chủ
tọa phiên tòa, Kiểm sát viên phải hỏi bị cáo, người bào chữa, người bị hại và
những người tham gia tố tụng khác về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
đến việc buộc tội, gỡ tội khi họ có ý kiến hoặc xuất trình những chứng cứ, tài
liệu, đồ vật mới tại phiên tòa.
5. Bị cáo được hỏi bị cáo
khác, bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện theo pháp luật của họ, người
giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật, nếu được chủ tọa phiên tòa
đồng ý”.
Đóng góp cụ thể của tôi:
-Thời điểm bắt đầu tranh tụng: Theo quan điểm
của tôi giai đoạn tranh tụng hình sự đã bắt đầu ngay từ phần xét hỏi chứ không
phải chỉ bắt đầu ở phần tranh luận nên cần quy định người bào chữa đã có quyền
bình đẳng với Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử trong việc đặt các câu hỏi để gỡ
tội cho người bị buộc tội trong phần xét hỏi.
-Mô hình tranh tụng: Tôi ủng hộ loại ý kiến
theo mô
hình xét hỏi như quy định của BLTTHS hiện hành vì theo tôi chưa thể áp
dụng mô hình trộn lẫn bởi trách nhiệm thu thập điều tra thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm vẫn do Cơ quan có thẩm quyền về điều tra tiến hành. Do đó hoạt
động xét xử của tòa án sẽ bắt đầu như quy định tại mục V về thủ tục xét hỏi tại
phiên tòa bắt đầu bằng việc kiểm sát viên công bố Cáo trạng như quy định tại
điều 303.
-Về trình
tự xét hỏi: Tôi đồng ý với quy định tại điều 304 tức là Chủ tọa phiên tòa –là
người điều khiển phiên tòa sẽ là người hỏi trước chứ không phải là Kiểm sát
viên điều này khẳng định rõ chức năng xét xử của Tòa án.
(ii)
Mục VI: Tranh luận tại phiên tòa (từ điều
316 đến điều 320):
Đây là
phần quan trọng nhất của hoạt động tranh tụng trong 1 vụ án hình sự là phần
người bào chữa thực hiện các quyền của mình để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc chứng minh vô tội cho bị cáo.
-Đóng góp
cho điều 319: Đối đáp ( sửa đổi, bổ sung)
“Bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của
Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập
luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh
luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn
chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh
luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến
vụ án hoặc các ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu
cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.”
Đóng
góp của tôi: Cần bổ sung vào đoạn 1: “trong các vụ án có người bào chữa tham gia
thì bản luận cứ thể hiện ý kiến của người bào chữa được coi là văn bản tố tụng
và được lưu trong hồ sơ vụ án”.
- Đóng góp
cho điều 320:
Điều 320. Trở lại việc xét hỏi (sửa đổi, bổ sung)
“Nếu qua tranh luận mà thấy
còn có nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì Hội
đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục
tranh luận”.
Đóng góp của tôi: Theo quy định tại điều này thì chỉ có Hội đồng xét xử mới có
quyền quyết định quay lại phần hỏi và cũng chỉ xét hỏi lại những vấn đề chưa rõ
như vậy là chưa đảm bảo quyền bào chữa của người bào chữa và nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong xét xử quy định tại điều 26 dự thảo. Tôi
đề nghị bổ sung vào quy định này: “Người
bào chữa, bị cáo có quyền đề nghị quay trở lại việc xét hỏi và không hạn chế phạm
vi xét hỏi” (có nghĩa là có thể xét hỏi cả những vấn đề đã xét hỏi).
Cơ sở lý luận là: Dựa
vào nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng khi
xét xử” (điều 26). Bởi vì kết quả của
hoạt động xét xử là ban hành bản án và bản án phải dựa trên kết quả tranh tụng
công khai bình đẳng tại phiên tòa nơi mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cơ
sở áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định mức
hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và các tình tiết khác có ý
nghĩa giải quyết vụ án phải được làm rõ. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn
cứ vào kết quả thẩm tra chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện, khách quan các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,
người bào chữa và những người khác tham gia tố tụng khác.
Hà Nội ngày 13 tháng 09 năm
2015
LS. TS Phan Thị
Hương Thủy
Giám đốc Công
ty luật TNHH Hoàng Long- Đoàn luật sư TP. Hà Nội