Ngày cập nhật: 02/07/2014
Diễn biến tiếp theo của vụ việc "Khai sinh cho con phái giám định ADN?" đăng trên báo Tuổi trẻ......
Vụ “Khai sinh cho con phải giám
định ADN?”:
Có chuyện nhầm lẫn quy định pháp lý
24/06/2014 05:14 (GMT + 7)
TT - Sau khi báo Tuổi
Trẻ ngày 17-6-2014 phản ánh việc “Khai sinh cho con phải giám định
ADN?”, chúng tôi nhận được ý kiến phân tích của một luật gia cho rằng ở đây có
chuyện nhầm lẫn quy định pháp lý dẫn đến việc yêu cầu thêm thủ tục.
Pháp luật Việt Nam hiện hành tạo mọi điều kiện cho
trẻ em đều được đăng ký khai sinh ngay, kể cả trường hợp trẻ em bị bỏ rơi hay
sinh ra ở nước ngoài. Hồ sơ thủ tục đăng ký khai sinh rất đơn giản nhằm tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho người đi đăng ký khai sinh thực hiện quyền đăng ký khai
sinh. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã nhầm
lẫn các quy định pháp lý nên từ chối hay yêu cầu các thủ tục không cần thiết
dẫn đến đứa trẻ sinh ra không thể đăng ký khai sinh.
Vụ việc đăng ký khai sinh cho con của bà
Trịnh Thu L. (Hà Nội) cho thấy công chức tư pháp - hộ tịch phường Đồng Tâm,
quận Hai Bà Trưng, Hà Nội chưa phân định quan hệ hôn nhân và quyền nhận con. Bà
L. đã đăng ký kết hôn với người Đức theo quy định pháp luật về hôn nhân có yếu
tố nước ngoài, nhưng việc bà L. đến đăng ký khai sinh cho con là yêu cầu độc
lập không quan hệ đến cuộc hôn nhân giữa bà và người chồng Đức. Do đó công chức
tư pháp - hộ tịch phường Đồng Tâm phải thụ lý giải quyết đăng ký khai sinh cho
con bà L. theo giấy chứng sinh (vì giấy chứng sinh chứng minh bà L. là mẹ ruột
của đứa trẻ) được quy định tại điểm 4, điều 1 nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày
2-2-2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về hộ
tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực.
Việc nhận con bà L. của “người chồng hiện
nay” là phù hợp vì điểm 8, điều 1, nghị định 06 quy định việc nhận con được
thực hiện nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm
đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận con là tự nguyện và không có tranh chấp
giữa những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc nhận con. Trong trường
hợp này, bà L. và những người có quyền và lợi ích liên quan không tranh chấp
việc nhận con thì yêu cầu nhận con của “người chồng hiện nay” cần phải được thụ
lý và giải quyết. Việc yêu cầu các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ chứng minh việc nhận
con từ công chức tư pháp - hộ tịch phường Đồng Tâm là cứng nhắc vì điểm b,
khoản 1, điều 35 nghị định 158 chỉ yêu cầu xuất trình nếu có. Theo khoản 1,
điều 34 nghị định 158 và điểm 9, điều 1 nghị định 06, trong thời hạn ba ngày kể
từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận con là đúng sự thật và
không có tranh chấp thì UBND cấp xã đăng ký việc nhận con. Trường hợp cần phải
xác minh thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá năm ngày.
Quan trọng trong hồ sơ này là việc phân
biệt rõ quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài với việc đăng ký khai sinh và
việc nhận con. Việc nhận con là quyền công dân được pháp luật bảo vệ nếu không
có tranh chấp, quan hệ hôn nhân xác lập và chấm dứt khi được tòa án có thẩm
quyền giải quyết, đăng ký khai sinh được giải quyết khi có yêu cầu và các thủ
tục theo quy định. Không thể lấy việc bà L. đã kết hôn, chưa ly hôn mà hạn chế
quyền nhận con của “người chồng hiện nay”. Yêu cầu phải có giám định ADN là
thừa thủ tục và giải quyết không đúng quy định pháp luật.
Đối với tỉnh Đồng Tháp, qua thực hiện công
tác hộ tịch cũng có rất nhiều trường hợp tương tự nhưng đã được giải quyết theo
quy định. Việc nhận con được thực hiện nếu không có tranh chấp phát sinh tại
thời điểm yêu cầu và không bao giờ đòi hỏi kết quả giám định ADN, vì kết quả
giám định ADN chỉ là chứng cứ khi có tranh chấp yêu cầu xác định con do tòa án
có thẩm quyền giải quyết.
Luật gia NGUYỄN THANH XUÂN (Đồng
Tháp)
Không cần kết luận giám định ADN
Ngày 23-6, Sở Tư pháp TP Hà Nội đã có công văn trả lời Tuổi Trẻ
về trường hợp bà Trịnh Thu L. đăng ký khai sinh cho con bị UBND phường Đồng
Tâm (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) buộc phải có kết quả giám định ADN để xác
định cha cháu bé mới được khai sinh.
Theo các giấy tờ mà Sở Tư pháp TP Hà Nội hướng dẫn, việc khai sinh
cho con của bà L. không cần phải có kết quả giám định ADN.
Theo Sở Tư pháp, nếu cháu bé được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
giữa bà L. với người chồng Đức thì cháu là con chung của hai vợ chồng. Cháu
bé sẽ được đăng ký khai sinh tại Sở Tư pháp Hà Nội với tên cha là tên chồng
chị L. trong giấy đăng ký kết hôn. Trong trường hợp bà L. đã ly hôn với người
chồng tại Đức: bà L. hoặc người ủy quyền hợp pháp cần thực hiện thủ tục ghi
vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài tại Sở Tư pháp theo quy
định tại thông tư số 16 năm 2012 của Bộ Tư pháp. Sau khi Sở Tư pháp xác nhận
việc ly hôn, bà L. cần tiến hành thủ tục đăng ký khai sinh cho con ngoài giá
thú kết hợp việc thực hiện đăng ký nhận cha cho con theo quy định tại khoản 3
điều 15 nghị định 158.
Theo Sở Tư pháp Hà Nội, khi đi đăng ký khai sinh cho con và làm
thủ tục nhận cha cho con, bà L. cần mang theo các giấy tờ: chứng minh nhân
dân hoặc hộ chiếu của người đi đăng ký hộ tịch để xác định về cá nhân người
đó; sổ hộ khẩu, sổ đăng ký tạm trú (đối với công dân trong nước) hoặc thẻ
thường trú, thẻ tạm trú, chứng nhận tạm trú (đối với người nước ngoài cư trú
tại VN) để làm căn cứ xác định thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định.
Trong trường hợp hồ sơ được gửi qua hệ thống bưu chính thì các giấy tờ quy định
trên phải là bản sao có chứng thực, trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp thì nộp
bản sao các giấy tờ nêu trên nhưng phải có bản chính để đối chiếu hoặc bản
sao có chứng thực. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con thì các bên cha, mẹ,
con phải có mặt.
TÂM LỤA
|
http://tuoitre.vn/Ban-doc/Nguoi-trong-cuoc/613196/khai-sinh-cho-con-phai-giam-dinh-adn.html