Ngày cập nhật: 27/06/2014
Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy – thuộc Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) xin trình bày quan điểm bảo vệ cho ông Ngô Văn Tuấn –là Bị đơn trong vụ kiện tranh chấp tài sản và quyền sử dụng đất với các Nguyên đơn là bà Ngô Thị Nghi, Ngô Thị Lễ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
-----------------*----------------
QUAN ĐIỂM LUẬT SƯ
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Ngô Văn Tuấn
Kính thưa HĐXX!
Tôi
là luật sư Phan Thị Hương Thủy – thuộc Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật
sư TP. Hà Nội) xin trình bày quan điểm bảo vệ cho ông Ngô Văn Tuấn –là Bị đơn
trong vụ kiện tranh chấp tài sản và quyền sử dụng đất với các Nguyên đơn là bà
Ngô Thị Nghi, Ngô Thị Lễ cụ thể như sau:
Tại bản án sơ thẩm dân sự số 21 ngày
27/9/2010 của Tòa án Nhân dân huyện Đông Anh đã xử:
-
Chấp nhân yêu cầu
kiện của cụ Ngô Thị Nghi và Ngô Thị Lễ đòi tài sản và quyền sử dụng đất đối với
ông Ngô Văn Tuấn (đòi lại ngôi nhà cấp 4 trên 450m2 đất tại thửa 104 tờ bản đồ
20 thôn Đoài, xã Việt Hùng, Đông Anh, HN)
-
Hủy đơn xin ủy
quyền sử dụng đất ngày 21/5/2003 giữa các cụ Ngô Thị Nghi, Ngô Thị Lễ và ông
Ngô Văn Tuấn.
-
Trích công sức
duy trì tài sản của ông Tuấn bằng 150m2 đất ở.
Sau khi xét xử ông Tuấn đã có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm không đồng ý việc chia nhà đất cho hai bà Nghi và bà Lễ như nêu
trên.
Căn cứ kháng cáo của ông Tuấn cụ thể như
sau:
1. Không đồng ý Quyết định của bản án sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu kiện đòi tài sản và quyền sử dụng đất vì các nguyên đơn không có giấy
tờ về quyền sở hữu đối với ngôi nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ
luật dân sự và Luật đất đai.
2. Không đồng ý quyết định hủy Đơn xin ủy quyền sử dụng
đất ngày 21/5/2003 lập tại UBND xã Việt Hùng thực chất là hợp đồng tặng cho tài
sản vì hết thời hiệu yêu cầu tòa án hủy hợp đồng tặng cho theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005.
Các luận cứ chứng minh như sau:
Thứ
nhất: Về quan hệ pháp luật:
Căn
cứ đơn khởi kiện của Nguyên đơn thì Nguyên đơn kiện đòi lại tài sản và quyền sử
dụng đất (cụ thể là ngôi nhà cấp 4 trên diện tích 450m2) tại thửa số 104 tờ bản
đồ 20 thôn Đoài, Việt Hùng, Đông Anh, Hà Nội mà đã được UBND huyện Đông Anh cấp
giấy chứng nhân cho hộ gia đình ông Ngô Văn Tuấn vào năm 2003.
Tòa
án Nhân dân huyện Đông Anh xác định đây là quan hệ pháp luật “tranh chấp đòi
tài sản và quyền sử dụng đất” .
Thứ
hai: Căn cứ đòi nhà đất của Nguyên đơn
Căn
cứ khoản 1 điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự quy định nghĩa vụ chứng minh của “đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho mình thì phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là
có căn cứ và hợp pháp”. Nhưng Nguyên đơn lại không có giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu đối với ngôi nhà cấp 4 theo quy định tại điều ….Bộ luật dân sự và
không có bất cứ loại giấy tờ gì về việc sử dụng đất theo quy định tại điều 50
Luật đất đai năm 2003. Nên việc bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu đòi nhà và
quyền sử dụng đất của Nguyên đơn là không có căn cứ.
Thứ
ba: Các căn cứ kháng cáo của ông Ngô Văn Tuấn:
Tại
bản ghi ý kiến của ông Ngô Văn Tuấn ngày …/…/2010 gửi Tòa án Nhân dân thành phố
Hà Nội đã trình bày rõ về tài sản trên thửa đất số 104 tờ bản đồ 20 thôn Đoài
xã Việt Hùng, Đông Anh:
-
Ngôi nhà hiện nay
là do ông Tuấn xây dựng lại do trải qua 2 trận lụt và thời gian quá dài chứ
không phải là căn nhà của cụ Đình Thị Chúc xây từ năm 1940. Ngoài ra ông Tuấn
còn trồng các cây lâu niên trên mảnh vườn trước nhà như xoài, mít, ổi hiện nay
vẫn còn.
-
Còn đối với quyền
sử dụng 450m2 thì ông Tuấn đã sử dụng từ năm 1995 và đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quyết định 406 ngày 39/6/2003 trên cơ sở Đơn xin ủy quyền quản lý sử dụng đất ngày
21/5/2003 của Nguyên đơn (Ngô Thị Nghi +Ngô Thị Lễ).
Thứ
tư: Phân tích tài liệu có nhan đề “Đơn xin ủy quyền quản
lý sử dụng đất ngày 21/5/2003”
Đây
là căn cứ chủ yếu của Bị đơn yêu cầu tòa án bác việc kiện đòi lại nhà và quyền
sử dụng đất của Nguyên đơn.
Bản án sơ thẩm xử hủy đơn xin ủy quyền sử dụng đất ở này
với lý do cụ Nghi và cụ Lễ xin tòa hủy vì nội dung đơn này chỉ ủy quyền cho ông
Tuấn trông nom và thờ cúng bố mẹ hai cụ, nhưng nay ông Tuấn không thờ cúng bố
mẹ hai cụ.
Bản án sơ thẩm xác định thực chất của tài liệu này là Hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của
điều 462 Bộ luật dân sự năm 1995. Nhưng bản án sơ thẩm lại cho rằng hợp
đồng này không có giá trị vì căn cứ vào một loạt các điều luật sau nhằm mục
đích để hủy tài liệu này cụ thể:
-
Điều 462 Bộ luật
dân sự để cho rằng văn bản này chưa được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
-
Điều 466 Bộ luật
dân sự quy định về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất thì văn bản này không
nêu điều kiện tặng cho.
-
Điều 691 Bộ luật
dân sự quy định hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được UBND cấp có
thẩm quyền xác nhận (nhưng văn bản này không có xác nhận của UBND huyện Đông
Anh)
-
Điều 693 quy định
khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì người chuyển nhượng phải có giấy chứng
nhân quyền sử dụng đất (nhưng lúc đó bà Nghi và bà Lễ chưa được cấp giấy chứng
nhận)
-
Điều 698 quy định
phải được nhà nước giao quyền sử dụng đất thì bà Nghi và bà Lễ chưa được nhà
nước giao quyền sử dụng đất.
Sau k hi nghiên cứu các quy định pháp luật mà bản án
sơ thẩm áp dụng để làm căn cứ hủy hợp đồng tặng cho tài sản ngày 21/5/2003 cho
thấy quyết định của bản án sơ thẩm là có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng
pháp luật bởi vì:
Một là: Vì đơn xin ủy quyền sử dụng đất ở ngày
21/5/2003 là thực chất là hợp đồng tặng cho tài sản là ngôi nhà trên quyền sử
dụng đất 450m2 tại thửa 104 tờ bản đồ 20 thôn Đoài, xã Việt Hùng, huyện Đông
Anh, Hà Nội nên cần phải áp dụng các điều luật về hợp đồng tặng cho tài sản là
nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật dân sự. Theo các tài liệu
đia chính lưu giữ tại xã thì nguồn gốc quyền sử dụng đất là đất của tổ tiên của
ông Tuấn nên không cần có quyết định giao đất của Nhà nước như nhận định của bản án sơ thẩm.
Hai là: Sau khi chứng minh hợp đồng tặng cho tài sản
ngày 21/5/2003 là hợp pháp thì mới xét đến quá trình chuyển quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở sang tên ông Ngô Văn Tuấn bằng việc xét cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ở theo quy định của Luật đất đai có hiệu lực vào thời
điểm 2003. (Thời điểm đó là Luật đất đai năm 1993 sừa đổi bổ sung năm 1998 và
2001 có hiệu lực).
Ông Tuấn khai rằng năm 2003 khi ông đi làm thủ tục xin
cấp sổ đỏ thì xã bảo là không cấp được mà phải về xin hai bà Nghi và bà Lễ làm
giấy cho tặng nhà đất tại UBND xã. Nên ông mới về nói với 2 bà cùng ông ra UBDN
xã làm thủ tục tặng cho nhà đất . Sau đó ông cung cấp bản photo cho UBND và đã
được cấp giấy chứng nhận.
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện phù hợp
với lời khai của ông Tuần cụ thể:
-
Ngày 20/5/2003
ông Tuấn làm đơn xin cấp giấy chứng nhận
-
Đơn 21/5/2003 ba
người ra UBND xã lập hợp đồng tặng cho tài sản
-
Đến ngày 25/5/2003
Chủ tịch UBND xã xác nhận vào Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
-
Ngày 30/6/2003
UBND huyện đã cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình ông Ngô Văn Tuấn
Căn
cứ các tài liệu nêu trên cho thấy: việc cấp giấy chứng nhận cho ông Tuấn là
đúng quy định của luật như xác nhận của Phòng tài nguyên và môi trường huyện
Đông Anh cho tòa án huyện Đông Anh và tòa án Hà nội (số 116 ngày 24/12/2010).
Và việc ông Tuấn được đứng tên không cấn phải áp dụng
các quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất như bản án sơ thẩm đã nhận định
Thứ
năm: Về thời hiệu yêu cầu tòa án hủy hợp đồng tặng cho
tài sản ngày 21/5/2003 của Nguyên đơn.
Bản án sơ thẩm quyết định yêu cầu xin hủy hợp đồng nêu
trên là trái với quy định tại điều Bộ luật dân sự quy định thời hiệu yêu cầu
tòa án hủy hợp đồng dân sự là 2 năm.
Ngày
21/5/2003 hai bà Nghi và Lễ cùng ông Tuấn làm thủ tục ký vào hợp đồng tặng cho
và cuối 2099 hai bà mới khởi kiện là quá thời hiệu (2 năm ).
Đề
nghị của luật sư
Căn
cứ vào phân tích nêu trên tôi đề nghị HĐXX bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên
đơn.
Luật sư
(đã ký)
Phan Thị Hương Thủy