Ngày cập nhật: 25/06/2014
Quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trương Văn Học - đại diện cho các nguyên đơn trong vụ án đòi quyền sử dụng đất ao cho mượn với Bị đơn là ông Nguyễn Văn Thanh
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do –Hạnh phúc
------------------*----------------
QUAN ĐIỂM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP
CHO ÔNG TRƯƠNG VĂN HỌC-ĐẠI DIỆN CHO CÁC
NGUYÊN ĐƠN
Kính
thưa HĐXX phúc thẩm –Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội
Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy thuộc Công ty luật
TNHH Hoàng Long xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
ông Trương Văn Học –đại diện cho các nguyên đơn trong vụ án này.
Ngày 24/12/2012 Tòa án Đông Anh đã ra bản án sơ thẩm
quyết định bác yêu cầu kiện của các nguyên đơn do ông Học làm đại diện và chấp
nhận đơn phản tố của bị đơn là ông Nguyễn Văn Thanh. Sau khi Tòa án Đông Anh
xét xử ông Học đại diện cho các nguyên đơn lả: Trương Văn Học, Trương Thị Hòa,
Trương Thị Khỏa, Trương Thị Cúc đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số
23 của Tòa án Đông Anh để đề nghị Tòa án Hà Nội xét xử lại vụ án.
Sau đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho ông Học –đại diện cho các nguyên đơn.
Về các yêu cầu kháng cáo của ông Học tôi đã trình bày
tại phần thủ tục. Nay tôi xin nhắc lại bao gồm:
-
Khiếu nại về việc
bản án sơ thẩm bỏ sót quan hệ pháp luật theo yêu cầu khởi kiện của phía Nguyên
đơn là đòi đất ao cho mượn chỉ giải quyết quan hệ pháp luật của bị đơn là yêu
cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đât ao.
-
Khiếu nại về việc
bản án sơ thẩm chấp nhận tờ giấy mà bị đơn xuất trình là giấy bán ao thửa ao mà
các nguyên đơn đang đòi trong khi không có gì thể hiện là giấy bán ao.
-
Khiếu nại về việc
bản án sơ thẩm bỏ sót tài sản trên đất ao không giải quyết đó là bụi tre ở phía
Bắc thửa đất.
-
Khiếu nại về
quyết định của bản án sơ thẩm buộc nguyên đơn phải chịu án phí theo giá ngạch
trong khi yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là đòi đất ao cho mượn.
Thứ nhất: Về bỏ sót quan hệ pháp luật
“đòi đất ao cho mượn”.
Yêu cầu kháng cáo của ông
Học đại diện cho các nguyên đơn là có căn cứ cụ thể bản án sơ thẩm đã bỏ sót quan
hệ pháp luật của nguyên đơn là “Đòi quyền
sử dụng đất ao cho mượn” trong khi tại trang 5 (dòng thứ 15) của bản án sơ
thẩm cũng xác nhận: “ Bản thân ông Học
cũng thừa nhận ông Thanh sử dụng thửa đất từ năm 1990 nhưng là do bố ông và
ông cho mượn”.
Yêu cầu đòi toàn bộ diện
tích đất ao cho mượn thể hiện trong các đơn của nguyên đơn như: Đơn khởi kiện ngày 24/12/2011, Đơn bổ sung
đơn khởi kiện ngày 3/2/2012, Đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 6/11/2012
theo Thông báo ngày 5/11/2012 của Tòa án huyện Đông Anh, Bản tự khai ngày
7/11/2012…..
Bản án sơ thẩm chỉ giải
quyết quan hệ pháp luật theo đơn phản tố ngày 14/8/2011 của bị đơn -ông Nguyễn
Văn Thanh yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ao
(bằng việc đưa ra Giấy bán ao ngày 29/9/1990 giữa cụ Trương Văn Bài với bị
đơn). Các nguyên đơn cũng “không tranh
chấp gì về hợp đồngchuyển nhượng quyền sử dụng đất” mà chỉ “không công nhận giấy bán ao” lập năm
1990 giữa cụ Bài với ông Thanh.
Do đó việc bản án sơ thẩm
chỉ giải quyết quan hệ pháp luật phản tố của bị đơn là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là thiếu sót
và tòa án cấp phúc thẩm phải khắc phục thiếu sót này.
Thứ hai:Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Vì tòa án sơ thẩm đã bỏ
sót quan hệ pháp luật theo yêu cầu khởi kiện của tôi nên tôi đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xác định lại
cho đúng quan hệ pháp luật của chúng tôi là kiện bị đơn đòi quyền sử dụng
đất ao cho mượn.
+ Về
quan hệ pháp luật: Căn cứ đơn khởi kiện, đơn bổ sung đơn khởi kiện tại tòa án
sơ thẩm và bản tự khai tại giai đoạn phúc thẩm thì xác định yêu cầu khởi kiện
của Nguyên đơn là đòi tài sản cho mượn cụ thể là đòi quyền sử dụng đất ao trên có bụi tre
cho mượn. Đây là quan hệ pháp luật đòi quyền sở hữu tài sản thuộc thẩm
quyền của tòa án quy định tại khoản 2 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự.
+
Về tư cách nguyên đơn: Trong vụ án này tòa án sơ thẩm xác định các anh em của
ông Học là: ông Học, bà Khỏa, bà Cúc, bà Sợi là các đồng nguyên đơn do ông Học
là đại diện còn ông Cải em ruột ông Học là người liên quan vì không ký vào đơn
kiện (vì không biết chữ) là phù hợp với khoan 2 điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án cấp sơ thẩm cũng đưa những người liên quan khác gồm: vợ hai của cụ Bài
–là bà Thoa cùng 4 người em cùng bố khác mẹ của ông Học là: bà Ngọc, bà Kim, bà
Đĩnh, bà Dung là đúng quy định tại khoản 4 điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong
quá trình tòa Đông Anh giải quyết đã lấy lời khai của ông Cải, bà Thoa và 4
người con không yêu cầu quyền lợi đối với đất ao đang có tranh chấp. Đây là
quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định tại điều 5 Bộ luật tố tụng dân
sự. Mặt khác căn cứ Bản giấy chia đất ở vườn ao cho các con do cụ Bài lập và đã
được Viện khoa học hình sự Bộ quốc phóng xác định là chữ ký của Bài thì cái ao
đã được chia cho ông Học là con trưởng từ năm 1969 để lo cúng giỗ hương khói
nên các người con khác không đòi hỏi quyền lợi gì vì là của ông Học. Việc cụ
Bài chia đất này trước thời điểm lấy vợ hai là bà Thoa nên việc mẹ con bà Thoa
không yêu cầu quyền lợi đối với thửa ao là quyền của đương sự đề nghị Tòa án
chấp nhận.
Do
đó các nguyên đơn trong vụ án này gồm: Trương Văn Học, Trương Thị Khỏa, Trương
Thị Cải, Trương Thị Sợi do ông Học là đại diện.
Thứ
ba: Các căn cứ cho việc khởi kiện đòi đất ao cho mượn.
+ Về nguồn gốc thửa đất ao: Về vấn đề này các đương sự
đều thống nhất là nguồn gốc đất ao thổ cư do cụ Trương Văn Bài-bố của các
nguyên đơn, đứng tên trong bản đồ địa chính lập năm 1986 bản đồ 299 thửa 172
diện tích 776m2.
+ Về vị trí, ranh giới thửa đất ao này: các đương sự
cũng thống nhất:Phía Nam
giáp ao của cụ Trương Văn Tụ nay là cháu Trương Minh Thư quản lý. Phía Bắc giáp
đất ông Trương Văn Thuận nay là của bà Trần Thị Mận, phía Đông giáp đất nhà ông
Hống,phía Tây là đường đi của xóm.
Các đương sự cũng thống nhất xác định vị trí diện tích đất ao của cụ Tụ nay là phần đất còn
lại ở phía Bắc của thửa đất số 80, tờ
bản đồ số 09, bản đồ 364 lập năm 1996 ghi tên ông Nguyễn Văn Thanh. Phần đất
phía Nam của thửa này có nguồn gốc là thửa đất ao số 108, tờ 2, bản đồ
299/1986, diện tích 396m2 do Trương Văn Tụ đứng tên chủ sử dụng, đã được trả
lại cho các thừa kế của cụ Trương Văn Tụ trong 1 vụ án dân sự theo bản án số 34
ngày 17/10/2008 của Tòa án Đông Anh với diện tích thực tế là 363m2.
+ Về tài sản trên đất: Căn cứ lời khai của ông Học, các
tài liệu tố tụng của vụ án dân sự giữa nguyên đơn là các con của cụ Tụ với bị
đơn là ông Nguyễn Văn Quế -bố của ông Thanh và biên bản xem xét thẩm định ngày
8/6/2013 lời khai của bà Trần Thị Mận, ông Trương Văn Do, ông Trương Minh Thư
thì xác định trên đất ao phía Bắc còn 1 bụi tre ở phía sau nhà cấp 4 của ông
Thanh giáp với đất của bà Mận.
Về bụi tre này ông Thanh cũng không nhận là tre của
ông trồng mà thửa nhận có trên đất ao của ông Bài trước đấy.
Do Bị đơn không xuất trình được giấy
tờ bán ao, nên việc ông Thanh đứng tên thửa đất số 80 diện tích 1164m2 theo bản
đồ hiện trạng lập năm 1996 bao gồm cả thửa ao của cụ Tụ là không có căn cứ.
+ Về căn cứ cho mượn ao: Tại sơ thẩm
ông Học đã cung cấp các giấy xác nhận của nhân chứng về việc ông Thanh mượn ao
để thả cá nhờ. Ông Thanh thừa nhận đất có nguồn gốc cùa cụ Bài nhưng không xuất trình được giấy bán
ao nên có căn cứ để xác định có việc mượn ao là có thật.
+ Về luật áp dụng giải quyết
yêu cầu kiện của nguyên đơn: đòi
quyền sử dụng đất ao cho mượn
theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật đất đai.
+ Về
thời hiệu:
Căn cứ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HDDTP
ngayf 10/8/2004 cua HDTP-TANDTC cua HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
|
Phần
I. Việc áp dụng các quy định của pháp
luật về thời hiệu
Khoản 2.
Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến
thừa kế
2.4. Không
áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
b) Trường
hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp
quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc
thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người
khác đó để đòi lại di sản.
Thì còn thời hiệu khởi kiện.
Các chứng cứ để chứng minh cho việc kiện đòi ao cho
mượn là:
- Diện tích đất ao mà tôi
đang đòi là phần đất còn lại ở phía Bắc của thửa đất số 80, tờ bản đồ số 09, bản đồ 364 lập năm 1996
có nguồn gốc là thửa đất ao số 172,
tờ bản đồ số 02 thôn Nhì, xã Vân Nội, diện tích 776m2, bản đồ 299 lập năm 1986
do bố tôi- Trương Văn Bài đứng tên chủ sử dụng. Phần đất phía Nam
của thửa này có nguồn gốc là thửa đất ao số 108, tờ 2, bản đồ 299/1986, diện
tích 396m2 do Trương Văn Tụ đứng tên chủ sử dụng, đã được trả lại cho các thừa
kế của cụ Trương Văn Tụ nay là ông Trương Minh Thư đang quản lý.
- Bị đơn- ông Nguyễn Văn
Thanh nói là được cụ Bài bán cho cái ao năm 1990 nhưng không xuất trình được
giấy tờ mua bán ao mà chỉ thể hiện giấy bán bèo trên ao. Trong khi chúng tôi
xuất trình chứng cứ về việc bị đơn mượn ao để thả nhờ cá.
- Tại Công văn số
104/CV-TNMT ngày 10/7/2012 V/v. Phúc đáp công văn số 03/2012/CV-TA ngày
12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Đông Anh đã trả lời thửa đất
số 80, tờ bản đồ số 09, diện tích 1164m2 tại thôn Nhì, xã Vân Nội, huyện Đông
Anh do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thanh quản lý chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đông Anh không có bất cứ hồ sơ, giấy tờ nào về
thửa đất nói trên.
- Tại Biên bản xác minh bổ sung ngày 21/6/2005 do ông
Trần Văn Thoan nay là Chủ tịch xã Vân Nội cung cấp cho Tòa án Đông Anh (có sự
tham gia của ông Chử Văn Đa-cán bộ địa chính xã) thì: Bản đồ địa chính lập năm
1996, thửa số 80, diện tích 1164m2 không có sổ dã ngoại, chưa có tên trong sổ địa chính
vì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. Thửa số 80
được xác định bao gồm diện tích của 2
thửa ao số 108 và 172 theo bản đồ 299 cùng với diện tích lối đi giữa thửa 108
và thửa liền kề về phía Nam.
Việc ông Thanh đứng tên thửa đất này (gộp 2 thửa ao)
là trái pháp luật, là gian dối vì thế tại bản án số 34/2006/DS-ST ngày
17/10/2006 Tòa án Đông Anh đã xử buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Thanh, vợ chồng
ông Nguyễn Văn Quế (bố mẹ của ông Thanh) phải trả lại diện tích ao lấn chiếm
của cụ Tụ là 363m2 đất ở phía Nam trong tổng số 1.164m2 số thửa 80, tờ số 9,
bản đồ 364, thôn Nhì-Vân Nội-Đông Anh.
- Như vậy đối với diện tích này Bị đơn không
có bất cứ giấy tờ nào về việc sử dụng đất theo quy định của khoản 1 điều 50
Luật đất đai, mà chủ sử dụng vẫn là
bố tôi -cụ Trương Văn Bài, nguồn gốc ao của ông cha để lại.
-
Về nguồn gốc
thửa đất ao tranh chấp:
Bố tôi là ông Trương Văn Bài
và mẹ tôi là bà Ngô Thị Khoa sinh được 5 người con đẻ gồm:Trương Văn Học,Trương
Thị Khỏa,Trương Thị Cúc (tức Sợi),Trương Văn Khải,Trương Thị Xuân.
Khi còn sống bố mẹ tôi được
các cụ để lại một mẫu Bắc Bộ đất vườn trên có ngôi nhà ngói cổ 5 gian và 3 sào
Bắc Bộ đất ao gồm 3 cái ao: 1 cái ao ở trong vườn, 1 cái ao ở cuối vườn giáp
đường dân sinh và 1 cái ao to ở cách xa vườn nằm giữa xóm chuyên để thả sen và
thả bèo để bán cho những người cùng xóm chăn nuôi lợn và làm rác cho trâu để
làm phân bón.
Năm 1968 mẹ tôi bị bệnh tim
qua đời, năm 1969 nhân giỗ đầu mẹ tôi bố tôi đã mời họ hàng hai bên nội ngoại đến
chứng kiến việc lập giấy chia đất ở vườn ao cho các con để bố tôi thuận tiện
khi đi bước nữa. Tại Kết luận giám định của Bộ Quốc phòng đã xác định chữ ký
trong giấy chia đất ở vườn ao là chữ ký của bố tôi. Tôi được bố chia cho cái ao to rộng hơn 2 sào (hiện đang tranh
chấp).
-Về qúa trình quản lý, sử dụng ao và cho mượn ao để thả
cá:
Cái ao mà bố tôi chia cho
tôi rất to hơn 2 sào nước sâu nên tôi và bố tôi sử dụng để trồng sen, thả bèo,
nuôi cá trong ao. Tôi đi bộ đội từ 1975-1980 về thấy bố tôi nuôi trồng thả bèo
trên nước ao để bán cho những người trong xóm, đó là công sức của bố tôi nên bố
tôi có quyền bán bèo trên đất ao đã chia cho tôi.Tôi xin cung cấp chứng cứ
chứng minh đó là:
-Ông Trương Văn Do, 84 tuổi
(con trai của cụ Trương Văn Tụ-chủ sử dụng cái ao thửa 108 giáp với cái ao của
bố tôi ở phía Nam) xác nhận như sau: “xác
nhận cụ Trương Văn Bài có cái ao ở giữa xóm Nhì trồng sen và thả bèo. Năm 1984
cụ Bài có bán bèo trên ao cho gia đình ông Nguyễn Văn Thoa liền kề nhà tôi cho
tới năm 1987 thì hết hạn. Sau lại bán cho gia đình nhà cụ Nguyễn Văn Bộ cùng
xóm từ năm 1987 đến năm 1990. Sau khi hết hạn cụ Bài lại bán tiếp cho anh
Nguyễn Văn Thanh cùng xóm.”.
-Anh Nguyễn Văn Thành (cháu
của ông Nguyễn Văn Bộ) xác nhận như sau:
“ Ông chú tôi là Nguyễn Văn Bộ ở
xóm Nhì có mua bèo trên ao của ông bác tôi là Trương Văn Bài từ năm 1987 đến
1990 mỗi năm bằng 20 ngàn, 3 năm là 60.000đ. Sau khi hết hạn ông chú tôi là
Nguyễn Văn Bộ có hỏi ông Bài để lại cho cái ao để dùng luôn trả ông bằng 2 vạn
gạch nhưng ông Bài không đồng ý nói là hỏi ý kiến vợ chồng bác Học vì đã làm
giấy cho bác Học rồi. Còn về sau thì tôi không biết, nay tôi xác nhận này là
đúng sự thật vì ông chú tôi là Nguyễn Văn Bộ đã mất lâu rồi”.
-Ông Nguyễn Văn Được, 66
tuổi ở xóm Nhì xác nhận với nội dung: “ tôi
thường ra ao của cụ Trương Văn Bài để xin lấy bèo về nuôi bèo và lấy bèo của cụ
Tụ cho đến năm 2004 thì thấy anh Nguyễn Văn Thanh san lấp ao của cụ Bài từ đó
tôi không có chỗ lấy bèo nữa. Tôi biết cụ Bài bán bèo cho gia đình ông Nguyễn
Văn Thoa sau đó bán bèo cho gia đình cụ Nguyễn Văn Bộ, sau đó lại thấy ông Học
cùng ông Cơ thả cá”.
-Tại Biên bản lấy lời khai
ngày 6/7/2005, anh Nguyễn Văn Sửu khai với tòa Đông Anh là có sự việc: “ông Được thả bèo, thả cá trên phần ao giáp
nhà ông Được, còn bên ngoài giáp đường làng thì tôi và anh Bảy còn bà Phách
cùng thả bèo, thả cá và đến 23 Tết hàng năm tát cá. Vào khoảng năm 1990-1992
sau khi chúng tôi bỏ thả cá một thời gian thì nghe thấy gia đình ông Quế đã mua
ao đó để sử dụng còn mua ao nào và mua cụ thể ra sao thì chúng tôi không biết.
Sau đó vợ chồng anh Thanh ra quản lý sử dụng ao, sau này cải tạo, san lấp…”.
-Anh Trương Minh Thư-cháu
nội của cụ Trương Văn Tụ hiện đang quản lý thửa ao 108 (là phần đất phía Nam
của thửa 80 tờ bản đồ 09) xác nhận như sau: “ Gia đình cụ Trương Văn Bài có cái ao ở giữa xóm Nhì, thả cá, thả bèo,
trồng sen. Phía Nam chung bờ với thửa đất của cụ Trương Văn Tụ nay cháu nội
Trương Minh Thư quản lý. Xung quanh bờ ao trồng tre và xoan chống lở bờ và làm
gianh giới. Năm 1984 bán bèo để chăn nuối lợn cho gia đình cụ Nguyễn Văn Thoa
và tiếp đó lại bán cho gia đình cụ Bộ. Khi cụ Bài còn sống ông Học vẫn chặt tre
về sử dụng và làm bếp. Đến năm 2004 gia đình anh Thanh san lấp mặt bằng và xây
tường bao chiếm đất của cụ Tụ (nay thuộc Trương Minh Thư quản lý), ông Thanh
xây tiếp nhà cấp 4 ở bờ ao phía Bắc thuộc đất của gia đình cụ Bài hiện nay vẫn
còn bụi tre liền nhà”.
-Việc những người dân xóm
Nhì ra ao của bố tôi vớt bèo là có thật thể hiện tại lời khai của ông Nguyễn
Văn Quế -là bố của ông Thanh trong vụ án
đòi đất ao của các con cụ Trương Văn Tụ đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn Quế
như sau: “ Khi địa phương giao đất cho
gia đình tôi sử dụng năm 1990 thì các hộ gia đình là bà Bẩy, Phách, ông Khu,
anh Được đang thả bèo ở đó đã ra vớt bèo để trả lại ao đó cho gia đình tôi. Đề
nghị tòa án đến hỏi họ để làm rõ sự việc”.
Có một thời gian tôi và ông
Cơ cùng thả chung cá nhưng không sinh lợi.
Từ năm 1993 bố tôi và tôi
cho ông Nguyễn Văn Thanh mượn ao để thả cá nhờ trên ao và thu hoạch bèo (phù
hợp với các nhân chứng xác nhận như nêu trên, chứ không phải từ năm 1990). Việc
cho mượn ao thả cá nhờ đã được nhiều nhân chứng xác nhận gồm: anh Trương Minh
Thư (cháu cụ Trương Văn Tụ có thửa ao số 108 bản đồ 299 liền kề với thửa ao của
bố tôi và cũng thả bèo trong ao), anh Nguyễn Duy Biên, ông Chử Văn Mẫu, ông
Trương Văn Nhuận và đã được UBND xã Vân Nội xác nhận các ông này đều thường trú
tại xã Vân Nội.
Bà Nguyễn Thị Bích- người ở
gần cái ao của bố tôi xác nhận tại Biên bản lấy lời khai ngày 6/7/2005 của tòa
án Đông Anh trong vụ án đòi đất ao giữa các con của cụ Tụ với ông Nguyễn Văn
Quế là : “ vợ chồng anh Thanh ra đây ở và
thả cá ở khu vực ao ông Bài và những năm sau này gia đình ông Thanh quản lý sử
dụng luôn cả ao của ông Dự. Gia đình tôi chỉ biết gia đình anh Thanh ở đó và có
nói chuyện là mua lại của Hợp tác xã còn cụ thể thế ra sao thì tôi không biết”.
Thời gian từ 1993 đến 2004 tôi vẫn thu hoạch
sen trong ao và cho nhiều người trong xóm ra vớt bèo về chăn nuôi. Đến đầu năm
2004 tôi mới chặt hết xoan và tre để xây cái bếp chỉ còn gốc tre trên bờ và 1
bụi tre ở phía Bắc giáp với đất của ông Lĩnh, sau đấy ông Thanh xây ngôi nhà
cấp 4 lên bụi tre của tôi nay vẫn
còn trên đất đang tranh chấp (tôi xin cung cấp bức ảnh chụp hôm Tòa
án Đông Anh tiến hành xem xét tại chỗ).
Ngày 13/4/2004 ông Thanh bắt
đầu đổ đất san lấp ao và tôi đã có đơn khiếu nại ra xã ngay. Ngày 13/4/2004 xã
đã có giấy mời tôi tham gia với tổ công tác xuống hiện trường kiểm tra việc đổ
đất lấp ao vào ngày 14/4/2004. Ngày 14/4/2004 tổ công tác của xã Vân Nội đã
kiểm tra và lập biên bản và ngày 16/4/2004 UBND xã Vân Nội đã ra Thông báo số
20 yêu cầu hộ ông Nguyễn Văn Thanh đình chỉ việc san lấp trên đất ao đang tranh
chấp. Nhưng ông Thanh vẫn tiếp tục xây tường bao quanh 2 thửa ao để thực hiện
hành vi san lấp ao thì lúc đó tôi mới không quản lý nữa. Thời điểm hộ ông Thanh
xây tường bao quanh thửa 80 để thực hiện hành vi lấn chiếm đất đã được tôi và
ông Trương MinhThư tiến hành chụp ảnh.
Tôi xin cung cấp giấy mời
của xã Vân Nội ngày 13/4/2004 với nội dung:
“ Cùng tổ công tác kiểm tra việc đổ đất lấp ao của hộ ông Thanh theo đơn đề
nghị cùa ông vào hồi 8 giờ 30 ngày 14/4/2004 tại hiện trường thôn Nhì” và
xác nhận của anh Trương Minh Thư về thời điểm ông Thanh chiếm xây nhà trên đất
ao của tôi “Đến năm 2004 gia đình anh
Thanh san lấp mặt bằng và xây tường bao chiếm đất của cụ Tụ (nay thuộc Trương
Minh Thư quản lý), ông Thanh xây tiếp nhà cấp 4 ở bờ ao phía Bắc thuộc đất của
gia đình cụ Bài hiện nay vẫn còn bụi tre liền nhà”.
Việc ông Thanh quản lý ao từ
thời điểm tháng 4 năm 2004 phù hợp với lời khai của ông Quế tại Biên bản lấy
lời khai ngày 28/4/2005 là “đến năm 2004
thì san lấp toàn bộ ao”, phù hợp với các chứng cứ về việc gia đình tôi và
gia đình ông Trương Minh Thư liên tục khiếu nại về hành vi lấn chiếm đất của hộ
ông Thanh (là các giấy mời của UBND xã Vân Nội mời các bên ra xã để giải quyết
theo đơn của 2 gia đình chúng tôi, đã được nhiều người dân gốc ở tại xóm Nhì
xác nhận như: ông Trương Minh Thư, Trương Văn Do, bà Nguyễn Thị Bích, ông
Nguyễn Văn Thành, anh Lại Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sửu, ông Nguyễn Văn Đậu.
-
Qúa trình đòi
ao cho mượn
Đến năm 2001 bố tôi yêu cầu
ông Thanh thu hoạch cá để nhà tôi thả cá thì ông Thanh bảo đợi cuối năm thu
hoạch cá rồi trả. Cuối năm 2001 bố tôi mất nên tôi phải tạm ngừng việc đòi ao
(lúc đó cái ao của bố tôi vẫn do tôi qụản lý và tôi vẫn cho hàng xóm vớt bèo
hái sen, tôi vẫn quản lý và sử dụng ao thể hiện ở việc đầu năm 2004 khi tôi xây
cái bếp tôi đã ra chặt hết xoan tre mà tôi và bố tôi trồng trên bờ ao (chỉ chừa lại 1 bụi ở phía Bắc ao nay vẫn còn)
cho đến tháng 4 năm 2004
khi anh Thanh xây tường bao quanh 2 thửa ao để san lấp ao thì tôi mới không
quản lý nữa.Tôi xin cung cấp xác nhận của ông Trương Văn Do xác nhận: “…Sau này lúc cụ Bài còn sống đã đòi lại ao
nhưng anh Thanh khất chưa thu hoạch được cá…”.
Từ cuối năm 2003 gia đình tôi có đơn khiếu nại ra xã Vân Nội
yêu cầu giải quyết đòi ao cho mượn nhưng không đạt kết quả. Năm 2005 tôi và gia
đình ông Trương Minh Thư khởi kiện bố
con ông Nguyễn Văn Quế ra tòa án Đông Anh, nhưng tòa chỉ thụ lý đơn kiện của
ông Thư, còn không thụ lý đơn kiện của tôi vì khi đó ông Quế chưa xuất trình
giấy tờ mua bán, nên gia đình tôi tiếp tục khiếu nại ra UBND huyện Đông Anh để
đòi lại thửa đất ao này. Năm 2011 khi UBND huyện Đông Anh chuyển đơn của tôi
đến UBND xã Vân Nội yêu cầu giải quyết thì ông Thanh đột ngột xuất trình giấy
bán ao của cụ Bài cho ông Thanh (lúc đó tôi không được nhìn thấy cái giấy chỉ
thấy anh Thanh nói là giấy bán ao lập năm 1990).
Do ông Thanh xuất trình giấy
bán ao nên UBND huyện Đông Anh chuyển hồ sơ sang tòa án giải quyết và tôi cùng
các em tôi đã nộp đơn khởi kiện ra tòa án huyện Đông Anh đề nghị đòi lại ao cho
mượn vì không công nhận giấy tờ mà ông Thanh xuất trình là hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bố tôi và anh Thanh.
Tôi khẳng định giấy tờ anh
Thanh xuất trình chỉ thể hiện nội dung bố
tôi bán bèo trên ao cho anh Thanh chứ thực tế không có việc mua bán
vì nếu có anh Thanh đã phải nhận là bố tôi bán cho anh Thanh từ năm 2004 chứ
không phải bán cho ông Quế (bố đẻ của anh Thanh).
Cái giấy mà anh Thanh xuất
trình đó là giấy bán bèo nhưng đã được làm mất nội dung một cách có chủ ý để
tạo thành giấy bán ao nhằm hợp thức việc mượn ao rồi lấn chiếm luôn không trả
của bị đơn.
Nhưng trong quá trình tòa
Đông Anh giải quyết vụ án đã cố
tình bỏ sót quan hệ đòi ao cho mượn của tôi, không yêu cầu xã Vân
Nội cung cấp hồ sơ địa chính liên quan đến việc tại sao từ 2 thửa ao số 172
(của bố tôi) và 108 của cụ Trương Văn
Tụ) lại chập vào thành 1 thửa 80 do ông Nguyễn Văn Quế -bố anh Thanh đứng tên xem
có giấy tờ về việc chuyển tên sử dụng đất từ bố tôi sang ông Quế hay không?
Theo ý kiến của cán bộ địa
chính xã thì bản đồ hiện trạng năm 1994 là do xã tự lập chứ không phải do người sử dụng đất tự kê khai và xã kiểm tra.
Khi vào bản đồ hiện trạng không công bố rộng rãi trong thôn xóm để mọi người
biết nên đến tận năm 2003 khi tôi xin trích lục bản đồ cái ao để đi vay vốn
ngân hàng thì mới phát hiện ra việc anh Thanh đứng tên cả 2 cái ao và chập
thành 1 thửa.
Việc đòi ao cho mượn của tôi
là liên tục từ khi bố tôi còn sống cho đến cuối năm 2003 thì chính thức có đơn
từ khiếu nại ra xã và từ năm 2005 đã gửi đơn kiện ra tòa án Đông Anh và đến
tháng 12 năm 2011 mới được Tòa án thụ lý. Tuy nhiên bản án sơ thẩm đã không xem
xét yêu cầu này của tôi mà chỉ giải quyết yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán
đất ao do bị đơn phản tố.
-Kết luận của bản án sơ thẩm không phù hợp với hồ sơ
vụ án.
- Bản án sơ thẩm của Tòa
Đông Anh xác định cái ao thửa 172 mang tên bố tôi liền kề với cái ao thửa số
173 mang tên cụ Trương Văn Tảo (tức Tụ) là không đúng với hồ sơ địa chính do
UBND xã Vân Nội quản lý. Theo bản đồ 299 lập năm 1986 thôn Nhì xã Vân Nội thể
hiện cái ao của bố tôi –Trương Văn Bài (thửa 172) không liền kề với cái ao thửa số 173 mang tên cụ Trương
Văn Tảo (tức Tụ) mà liền kề với cái ao của ông Nguyễn Văn Lĩnh thửa số 90 ở
phía Bắc và cái ao của cụ Trương Văn Tụ thửa số 108 ở phía Nam. Có cái ao thửa
173 mang tên cụ Trương Văn Tảo nhưng ở chỗ cách xa vị trí cái ao của bố tôi. Việc
ghi chú “Trương Văn Tảo (tức Tụ)” là
do thẩm phán Đỗ Thị Vân tự ghi vào chứ trong hồ sơ địa chính do UBND xã Vân Nội
lưu trữ không có ghi chú này.
Thửa số 80 tờ bản đồ 09 thôn
Nhì lập năm 1996 diện tích 1153m2 là gộp của 2 thửa ao số 172 và 108 (không
phải 173). Vì thế nên tại văn bản số ngày của Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Đông Anh đã trả lời cho tòa án Đông Anh là “không có hồ sơ về thửa đất có diện tích chung của hai thửa 172 và 173
như tòa án hỏi”.
-Bản án sơ thẩm xác định
thời điểm bị đơn – ông Nguyễn Văn Thanh sử
dụng đất là 1990 và thời điểm
xây nhà trên đất ao của bố tôi là 1992 là dựa theo lời khai của bị đơn
và không đúng với hồ sơ quản lý của xã Vân Nội là thửa 80 tờ bản đồ 09 năm 1994
là “ông Nguyễn Văn Quế”. Và không
đúng với thực tế thời điểm ông Thanh sử dụng đất ao của bố tôi là sau tháng 4
năm 2004. Việc xây dựng trên đất ao sau khi đã xây tường bao quanh 2 thửa ao số
172 và 108 và san lấp mặt bằng xong. Tại Đơn khiếu nại ngày 8/1/2010 của ông
Nguyễn Văn Quế-bố của ông Nguyễn Văn Thanh gửi Chủ tịch UBND huyện Đông Anh thể
hiện: “Năm 1990 được HTX bán cho suất ao
tập thể và năm 1992 san lấp đến năm 1993 thì cho con trai là Nguyễn Văn Thanh
ra làm nhà ở tại đó”.
Tại Biên bản xác minh ngày
6/7/2005 của Tòa án Đông Anh đối với ông Nguyễn Văn Định (tức Đoạt) là chủ sử
dụng đất liền kề với cái ao của cụ Tụ cũng thể hiện thời điểm sử dụng đất và
xây nhà trên ao của cụ Tụ chứ không phải xây trên đất ao của tôi. Thời điểm xây
nhà cấp 4 trên đất ao của cụ Tụ là năm 1995 phù hợp với Biên bản xem xét tại
chỗ ngày 8/6/2005 trong vụ án dân sự đòi đất ao của các con cụ Tụ đối với ông
Quế tại thửa 108. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 28/4/2005 đối với ông Nguyễn
Văn Quế cũng thể hiện: “ Năm 1995 anh
Thanh ra làm nhà cấp 4 trên đất của cụ Tụ và san lấp dần, cho đến năm 2004 thì
san lấp toàn bộ ao”.
Việc xây tường ngăn cũng
thực hiện vào cuối năm 2004 cụ thể bà Nguyễn Thị Bích khai tại Biên bản lấy lời
khai ngày 6/7/2005 như sau: “ Vào khoảng
cuối năm 2004 đầu năm 2005 gia đình anh Thanh đổ đất lấp ao và xây tường ngăn
với đất nhà tôi và ao của gia đình ông Dự”
Thời điểm san lấp toàn bộ
mặt bằng thửa 80 theo xác nhận của UBND xã Vân Nội (tại Biên bản xác minh ngày
17/5/2005 và Biên bản xác minh bổ sung ngày 21/6/2005), bà Nguyễn Thị Bích (chủ
sử dụng đất ở phía Nam thửa 80 –tại Biên bản lấy lời khai ngày 6/7/2005) là cuối năm 2004-đầu năm 2005 .
Thời điểm xây nhà và trồng
cây trên phần ao của gia đình tôi chỉ sau khi ông Thanh đã san lấp toàn bộ mặt
bằng ao vì ao sâu nên phải san lấp xong mới xây dựng, trồng cây được (theo lời
khai của ông Nguyễn Văn Định tại Biên bản lấy lời khai ngày 6/7/2005 như sau: “
Khi anh Thanh ra ở anh phải đổ đất lấp ao
vì ao này cũng khá sâu…”. Tại Thông báo số 20 ngày 16/4/2004 của UBND xã
Vân Nội có nội dung: “ngày 14/4/2004 tổ
công tác của xã đã đến lập biên bản việc ông Thanh san lấp ao của bố tôi và ao
của cụ Tụ theo đơn khiếu nại của chúng tôi và xã yêu cầu hộ ông Thanh đình chỉ
việc san lấp ao đang tranh chấp để chờ cấp có thẩm quyền giải quyết” thể
hiện thời điểm tháng 4 năm 2004 thửa 80 vẫn là ao chưa phải là đất.
Như vậy việc xây nhà và
trồng cây phải tiến hành sau khi san lấp, tức là đầu năm 2005 ông Thanh mới xây nhà chứ không phải xây
năm 1992 như án sơ thẩm nhận định.Nên toàn bộ công trình cây cối trên đất tranh
chấp ông Thanh được tạo dựng sau
khi tôi đã có đơn khiếu nại và xã đã có Thông báo đình chỉ san lấp ao.
Thứ tư: Xét yêu cầu phan to của bi
đơn.
+
Yêu cầu phản tố của Bị đơn: cũng có 2 yêu cầu.
1) Đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất ao (là tài liệu giấy bán ao) giữa ông Trương
Văn Bài bán cho ông Nguyễn Văn Thanh năm 1990 và bác yêu cầu kiện đòi di sản
của nguyên đơn.
2) Đề nghị Tòa án công nhận quyền sử
dụng đất và nhà trên diện tích 1153m2 thửa 80 tờ bản đồ 09 bản đồ lập năm 1996
thôn Nhì xã Vân nội là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Văn Thanh để
xin cấp giấy chứng nhận theo quy định của Luật đất đai.
Y
kiên của nguyên đơn đối với yêu cầu phản tố của bị đơn; không công nhận tài
liệu mà bị đơn xuất trình là giấy bán ao giữa ông Trương Văn Bài và ông Nguyễn
Văn Thanh.
Căn cứ kết luận giám định
thì nguyên đơn chữ viết của ông Bài nhưng chỉ công nhận đó là giấy bán diện tích nuôi bèo trên ao, công sức nuôi
trồng bèo là của bố tôi nên việc bố tôi bán bèo trên ao cho ông Thanh tôi công
nhận, còn đất ao thì vẫn đòi vì ông Thanh mượn chứ không phải mua
bán.
- Bị đơn- ông Nguyễn Văn
Thanh nói là được cụ Bài bán cho cái ao năm 1990 nhưng không xuất trình được
giấy tờ mua bán ao mà chỉ thể hiện giấy bán bèo trên ao. Trong khi chúng tôi
xuất trình chứng cứ về việc bị đơn mượn ao để thả nhờ cá.
Xác định luật áp dụng để giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn: Vì bị đơn
không chứng minh được giấy tờ bán ao nên không thể áp dụng Nghị quyết 02 ngày
10/8/2004 phần II -I. Về thừa kế, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất,
mục 2.3. Việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này
15/10/1993 để giải quyết. Bản án sơ thẩm vận dụng điểm a mục 2.3 để công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ;
a) Điều
kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui
định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật
Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1
Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003,
thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng
đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:
Là không có căn cứ.
Nguyên đơn không có tranh chấp gì đến hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ không công nhận tờ giấy mà bị đơn đưa ra là
giấy bán ao.
+ Về giấy tờ sử
dụng đất của bị đơn: Không phù hợp với luật đất đai năm 1993 và 2003.
Bị đơn cũng không thực hiện việc chuyển quyền sử dụng
đất theo quy định tại điều 31 Luật đất đai năm 1993.
Điều 31
1- Thủ tục chuyển đổi
quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân xã; ở đô thị làm tại Uỷ
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
2- Thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị
làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Bị đơn cũng không thể
làm thủ tục chuyển nhượng quyền sư dụng đất theo quy định tại điều 127 Luật đất đai năm 2003.
Điều 127. Trình tự, thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất
1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
quy định như sau:
a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất;
b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng
nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
đất.
Tức là vẫn cần phải có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, nếu bị đơn không có thì coi như việc sử dụng đất là không có căn cứ.
- Tại Công văn số
104/CV-TNMT ngày 10/7/2012 V/v. Phúc đáp công văn số 03/2012/CV-TA ngày
12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Đông Anh đã trả lời thửa đất
số 80, tờ bản đồ số 09, diện tích 1164m2 tại thôn Nhì, xã Vân Nội, huyện Đông
Anh do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thanh quản lý chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đông Anh không có bất cứ hồ sơ, giấy tờ nào về
thửa đất nói trên.
- Tại Biên bản xác minh bổ sung ngày 21/6/2005 do ông
Trần Văn Thoan nay là Chủ tịch xã Vân Nội cung cấp cho Tòa án Đông Anh (có sự
tham gia của ông Chử Văn Đa-cán bộ địa chính xã) thì: Bản đồ địa chính lập năm
1996, thửa số 80, diện tích 1164m2 không có sổ dã ngoại, chưa có tên trong sổ địa chính
vì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở. Thửa số 80
được xác định bao gồm diện tích của 2
thửa ao số 108 và 172 theo bản đồ 299 cùng với diện tích lối đi giữa thửa 108
và thửa liền kề về phía Nam.
Việc ông Thanh đứng tên thửa đất này (gộp 2 thửa ao)
là trái pháp luật, là gian dối vì thế tại bản án số 34/2006/DS-ST ngày
17/10/2006 Tòa án Đông Anh đã xử buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Thanh, vợ chồng
ông Nguyễn Văn Quế (bố mẹ của ông Thanh) phải trả lại diện tích ao lấn chiếm
của cụ Tụ là 363m2 đất ở phía Nam trong tổng số 1.164m2 số thửa 80, tờ số 9,
bản đồ 364, thôn Nhì-Vân Nội-Đông Anh.
- Như vậy đối với diện tích này Bị đơn không
có bất cứ giấy tờ nào về việc sử dụng đất theo quy định của khoản 1 điều 50
Luật đất đai, mà chủ sử dụng vẫn là
bố tôi -cụ Trương Văn Bài, nguồn gốc ao của ông cha để lại.
Các loại giấy tờ theo quy định như sau
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong
các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
không phải nộp tiền sử dụng đất:
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở
gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các
loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người
khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên
có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các
loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ
trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được
xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các
loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15
tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với
quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất
thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất
theo quy định của Chính phủ.
Tóm lại về điều kiện đất
không có tranh chấp thì bị đơn không thể có vì ông Học đã liên tục khiếu nại từ
2004 cho đến nay.
Việc ông Thanh quản lý ao từ
thời điểm tháng 4 năm 2004 phù hợp với lời khai của ông Quế tại Biên bản lấy
lời khai ngày 28/4/2005 là “đến năm 2004
thì san lấp toàn bộ ao”, phù hợp với các chứng cứ về việc gia đình tôi và
gia đình ông Trương Minh Thư liên tục khiếu nại về hành vi lấn chiếm đất của hộ
ông Thanh (là các giấy mời của UBND xã Vân Nội mời các bên ra xã để giải quyết
theo đơn của 2 gia đình chúng tôi, đã được nhiều người dân gốc ở tại xóm Nhì
xác nhận như: ông Trương Minh Thư, Trương Văn Do, bà Nguyễn Thị Bích, ông
Nguyễn Văn Thành, anh Lại Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sửu, ông Nguyễn Văn Đậu.
-Kết luận của bản án sơ thẩm không phù hợp với hồ sơ
vụ án.
- Bản án sơ thẩm của Tòa
Đông Anh xác định cái ao thửa 172 mang tên bố tôi liền kề với cái ao thửa số
173 mang tên cụ Trương Văn Tảo (tức Tụ) là không đúng với hồ sơ địa chính do
UBND xã Vân Nội quản lý. Theo bản đồ 299 lập năm 1986 thôn Nhì xã Vân Nội thể
hiện cái ao của bố tôi –Trương Văn Bài (thửa 172) không liền kề với cái ao thửa số 173 mang tên cụ Trương
Văn Tảo (tức Tụ) mà liền kề với cái ao của ông Nguyễn Văn Lĩnh thửa số 90 ở
phía Bắc và cái ao của cụ Trương Văn Tụ thửa số 108 ở phía Nam. Có cái ao thửa
173 mang tên cụ Trương Văn Tảo nhưng ở chỗ cách xa vị trí cái ao của bố tôi. Việc
ghi chú “Trương Văn Tảo (tức Tụ)” là
do thẩm phán Đỗ Thị Vân tự ghi vào chứ trong hồ sơ địa chính do UBND xã Vân Nội
lưu trữ không có ghi chú này.
Thửa số 80 tờ bản đồ 09 thôn
Nhì lập năm 1996 diện tích 1153m2 là gộp của 2 thửa ao số 172 và 108 (không
phải 173). Vì thế nên tại văn bản số ngày của Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Đông Anh đã trả lời cho tòa án Đông Anh là “không có hồ sơ về thửa đất có diện tích chung của hai thửa 172 và 173
như tòa án hỏi”.
-Bản án sơ thẩm xác định
thời điểm bị đơn – ông Nguyễn Văn Thanh sử
dụng đất là 1990 và thời điểm
xây nhà trên đất ao của bố tôi là 1992 là dựa theo lời khai của bị đơn
và không đúng với hồ sơ quản lý của xã Vân Nội là thửa 80 tờ bản đồ 09 năm 1994
là “ông Nguyễn Văn Quế”. Và không
đúng với thực tế thời điểm ông Thanh sử dụng đất ao của bố tôi là sau tháng 4
năm 2004. Việc xây dựng trên đất ao sau khi đã xây tường bao quanh 2 thửa ao số
172 và 108 và san lấp mặt bằng xong. Tại Đơn khiếu nại ngày 8/1/2010 của ông
Nguyễn Văn Quế-bố của ông Nguyễn Văn Thanh gửi Chủ tịch UBND huyện Đông Anh thể
hiện: “Năm 1990 được HTX bán cho suất ao
tập thể và năm 1992 san lấp đến năm 1993 thì cho con trai là Nguyễn Văn Thanh
ra làm nhà ở tại đó”.
Tại Biên bản xác minh ngày
6/7/2005 của Tòa án Đông Anh đối với ông Nguyễn Văn Định (tức Đoạt) là chủ sử
dụng đất liền kề với cái ao của cụ Tụ cũng thể hiện thời điểm sử dụng đất và
xây nhà trên ao của cụ Tụ chứ không phải xây trên đất ao của tôi. Thời điểm xây
nhà cấp 4 trên đất ao của cụ Tụ là năm 1995 phù hợp với Biên bản xem xét tại
chỗ ngày 8/6/2005 trong vụ án dân sự đòi đất ao của các con cụ Tụ đối với ông
Quế tại thửa 108. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 28/4/2005 đối với ông Nguyễn
Văn Quế cũng thể hiện: “ Năm 1995 anh
Thanh ra làm nhà cấp 4 trên đất của cụ Tụ và san lấp dần, cho đến năm 2004 thì
san lấp toàn bộ ao”.
Việc xây tường ngăn cũng
thực hiện vào cuối năm 2004 cụ thể bà Nguyễn Thị Bích khai tại Biên bản lấy lời
khai ngày 6/7/2005 như sau: “ Vào khoảng
cuối năm 2004 đầu năm 2005 gia đình anh Thanh đổ đất lấp ao và xây tường ngăn
với đất nhà tôi và ao của gia đình ông Dự”
Thời điểm san lấp toàn bộ
mặt bằng thửa 80 theo xác nhận của UBND xã Vân Nội (tại Biên bản xác minh ngày
17/5/2005 và Biên bản xác minh bổ sung ngày 21/6/2005), bà Nguyễn Thị Bích (chủ
sử dụng đất ở phía Nam thửa 80 –tại Biên bản lấy lời khai ngày 6/7/2005) là cuối năm 2004-đầu năm 2005 .
Thời điểm xây nhà và trồng
cây trên phần ao của gia đình tôi chỉ sau khi ông Thanh đã san lấp toàn bộ mặt
bằng ao vì ao sâu nên phải san lấp xong mới xây dựng, trồng cây được (theo lời
khai của ông Nguyễn Văn Định tại Biên bản lấy lời khai ngày 6/7/2005 như sau: “
Khi anh Thanh ra ở anh phải đổ đất lấp ao
vì ao này cũng khá sâu…”. Tại Thông báo số 20 ngày 16/4/2004 của UBND xã
Vân Nội có nội dung: “ngày 14/4/2004 tổ
công tác của xã đã đến lập biên bản việc ông Thanh san lấp ao của bố tôi và ao
của cụ Tụ theo đơn khiếu nại của chúng tôi và xã yêu cầu hộ ông Thanh đình chỉ
việc san lấp ao đang tranh chấp để chờ cấp có thẩm quyền giải quyết” thể
hiện thời điểm tháng 4 năm 2004 thửa 80 vẫn là ao chưa phải là đất.
Như vậy việc xây nhà và
trồng cây phải tiến hành sau khi san lấp, tức là đầu năm 2005 ông Thanh mới xây nhà chứ không phải xây
năm 1992 như án sơ thẩm nhận định.Nên toàn bộ công trình cây cối trên đất tranh
chấp ông Thanh được tạo dựng sau
khi tôi đã có đơn khiếu nại và xã đã có Thông báo đình chỉ san lấp ao.
Ý kiến của nguyên đơn đối với đơn phản tố của bị đơn.
Trong quá trình tòa án Đông
Anh giải quyết vụ án của tôi, ngày 14/8/2012 ông Nguyễn Văn Thanh có đơn phản
tố yêu cầu tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ao ngày
29/9/1990 giữa bố tôi và ông Thanh có hiệu lực pháp luật. Bản án sơ thẩm đã xác
định giấy tờ mà ông Thanh xuất trình không thể hiện nội dung là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng ao vì
bị rách mất nhiều chữ. Cụ thể tiêu đề không thể hiện là “ “Giấy bán ao”, ngày bán không thể hiện là “ngày 29/9/1990”, và cũng không có chữ nào là “bán”, không thể hiện giá bán “500
nghìn đồng” như bị đơn trình bày trong Đơn phản tố.
Từ nội dung
trên tôi khẳng định không có việc mua bán ao giữa bố tôi và ông Nguyễn Văn
Thanh và khẳng định này dựa trên các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Tóm lại: Bị đơn phản tố nói là đã mua ao, chứ không phải mượn
ao, nhưng không chứng minh được đã mua
đất ao nên không có căn cứ để yêu cầu tòa án công nhận hợp đồng mua bán ao.
IV-.Đề nghị cụ thể của tôi:
Đề nghị Tòa án xác định quan
hệ pháp luật của nguyên đơn do ông Học đại diện là đòi quyền sở hữu tài sản
trên đất ao cho mượn chứ không phải tranh chấp quyền sừ dụng đất.
Đề nghị chấp nhận yêu cầu
kiện đòi đất ao cho mượn của nguyên đơn vì bị đơn không chứng minh được là được
cụ Bài bán cho cái ao.
Trước hết cần xác định quyền
sử dụng 747,5m2 đất có nguồn gốc là cái ao là đất thổ cư có 1 bụi tre trên đất
là tài sản thuộc quyền sở hữu của cụ Bài. Khi còn sống, trước khi lấy bà Thoa
cụ Bài đã chia cái ao này cho ông Học. Tuy việc chia đất không thực hiện tại xã
và ông Học không đăng ký kê khai đối với cái ao này nhưng căn cứ vào kết quả
giám định thì chũ ký của cụ Bài là thật trên giấy chia đất.
Năm 2001 cụ Bài mất, anh em ông Học là những người thừa kế được
xác lập quyền sở hữu theo luật thừa kế theo quy định tại điều 245 Bộ luật dân
sự. Các con của bà Thoa cũng là người thừa kế nhưng đã khước từ nên xác định
những người có quyền sở hữu để đòi tài sản là an hem ông Học. Căn cứ điều 256
Bộ luật dân sự anh em ông Học có quyền đòi lại tài sản.
Thời điểm đòi quyền sở hữu
bắt đầu từ năm 2004 liên tục cho đến nay. Từ khi bị đơn chưa xây dựng nhà của
công trinh trên đất. Trong quá trình sử dụng do lấn chiếm bị đơn đã bị UBND xã
Vân Nội thông báo đình chỉ san lấp trên mặt nước ao đang có tranh chấp. Do vậy
nhà cửa công trình trên đất là bất hợp pháp.
Việc Bị đơn quản lý đất
không thuộc trường hợp nào quy định tại điều 183 Bộ luật dân sự và phải coi là
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Hiện nay không có bất cứ
loại giấy tờ nào về việc sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 điều 50 Luật đất
đai. Việc ông Thanh đứng tên thửa số 80 tờ bản đồ số 09 năm 1996 bao gồm 2 thửa
ao của cụ Tụ và của bố tôi là tự khai chứ không phải việc gộp ao được ghi trong
bản đồ địa chính
Đề nghị Tòa án bác đơn phản tố của bị đơn vì
nói là đã mua cái ao nhưng không chứng minh được, giấy tờ mà bị đơn xuất trình
không thể hiện việc mua ao và thực chất là không có việc mua bán .
Ngày 8/7/2013 Tòa án đã tiến
hành xem xét thẩm định tại
chỗ đất tranh chấp để xác định chính xác diện tích đất tranh chấp (747,5m2m2
chứ không phải 748m2) và xác định làm rõ còn bụi tre trên đất.
Căn cứ vào thông báo số 20 ngày 16/4/2004 của UBND xã
Vân Nội đã xác định thời điểm ao chuyển thành đất là năm 2004 do ông Nguyễn Văn
Thanh thực hiện san lấp và đã bị ông Trương Văn Học khiếu nại nên mới có Thông
báo đình chỉ của xã. Căn cứ vào thông báo này cho thấy thời điểm 2004 ông Thanh
tiến hành san lấp cả thửa ao 108 của cụ Trương Văn Tụ và xây tường bao xung
quanh. Như vậy xác định trên thực địa thì việc ao chuyển thành đất thành khuôn
viên từ năm 2004.
Còn căn cứ bản đồ hiện trạng thì từ năm 1996 thửa ao
này đã nhập với thửa ao của cụ Tụ thành thửa 80 diện tích 1164m2 tờ bản đồ 9.
Năm 2010 được tách thành 2 thửa : số 80 (2) diện tích 296m2 mang tên ông Trương
Minh Thư và thừa 80 thì chỉ còn 776m2. Nguyên đơn kiện đòi di sản của cụ Trương
Văn Bài là diện tích hiện nay thửa 80 tờ bản đồ 09 năm 2010 chứ không phải thửa
80 tờ bản đồ 09 bản đồ lập năm 1996. Việc nhập hai thửa ao trên bản đồ thì công
dân không thể biết được vì thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước.
Vị trí diện tích này hiện nay là: quay về hiện trạng
của năm 1986 chỉ khác tên chủ sử dụng liền kề và số thửa đất ở phía Nam
giáp thửa đất 80 (2) của ông Trương Minh Thư.
-Xác định thời điểm Nguyên đơn khiếu nại: Căn cứ vào thông
báo của UBND xã Vân Nội và lời khai của Nguyên đơn thì khoảng cuối năm 2003
Nguyên đơn mới biết hai thửa ao 108 và 172 bị nhập làm thừa 80 và do ông Nguyễn
Văn Quế bố của ông Thanh đứng tên vì lý do lúc đó ông Học làm đơn xin xã cấp
trích lục bản đồ thửa ao 172 để vay vốn ngân hàng thì xã trả lời không cấp vì
thửa ao đúng tên ông Quế.
Sau khi ông Học làm đơn khiếu nại thì ông Thanh mới
tiến hành san lấp và xây tường bao và nhà để ở hẳn tại đó. Do vậy thời điểm ông
Thanh quản lý thửa ao phải xác định là từ năm 2004 chứ không phải từ năm 1990
vì thửa ao ở xa nhà ông Học và ông Thanh, ông Thanh cũng có nhà đất ở chỗ khác
nên nếu ông Thanh xây tường bao quanh thửa ao và ở tại đó thì chắc chắn ông Học
đã khiếu nại ngay.
Lập luận này căn cứ vào Thông báo số 20 ngày 16/4/2004
của xã Vân Nội là có căn cứ.
- Xác định thời điểm Bị đơn xây nhà và công trình trên
đất tranh chấp: theo Biên bản xem xét xác định tại chỗ do tòa án Đông Anh tiến
hành ngày…./…2012 thì trên diện tích đất tranh chấp có 1 ngôi nhà cáp 4, 1 cái
bếp, sân. Bị đơn khai là xây năm 1990. Nhưng Nguyên đơn không thừa nhận và cho
là chỉ xây sau này khi bên Nguyên đơn khiếu nại và bên Bị đơn xây tường bao và
làm nhà bên trong.
Căn cứ chứng cứ do bên Nguyên xuất trình là các xác
nhận của các nhân chứng và là người cao tuổi sống gần thửa ao là các ông bà:
Do, Hống, Thư, Đoạt, Thao…thì chỉ sau 2005 thì mới xây tường và công trình. Lời
xác nhận này là có căn cứ vì thửa ao gần đường làng và các ông bà nói trên đều
ở liền kề với đất tranh chấp.
Gỉa sử ông Thanh có quản lý sử dụng từ năm 1990 thì
tính đến nay (2013) vẫn chưa đủ 30 năm để được coi là chủ sở hữu đối với cái ao
có bụi tre đất đât theo quy định tại điều 247 Bộ luật dân sự.
Theo
Đơn phản tố ngày 7/3/2012 Bị đơn đề nghị tòa án công nhận giấy bán ao ngày
29/9/1990 lập giữa bên bán là ông Trương Văn Bài với bên mua là Nguyễn Văn
Thanh.theo đó ông Bài đã bán cái ao với giá 500 nghìn đồng từ năm 1990, năm
1992 Bị đơn đã xây nhà ở và đóng thuế cho nhà nước. Việc mua bán ao khi ông Bài
còn sống và được vợ kế của ông Bài là bà Thoa chứng nhận.
- Áp dụng Nghị quyết số
02 vào trường hợp này thì cũng không thỏa mãn các điều kiện để được công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ao (giấy bán ao) cụ thể:
Một là: Trường hợp này
là do ông Thanh mượn ao thả cá rồi chiếm luôn đến năm 2012 mới trình giấy bán
ao nên không thể coi là hai bên ký hợp đồng rồi thực hiện trên cơ sở hợp đồng.
Mà phải coi là cái ao đã bị ông Thanh lấn chiếm bất hợp pháp thông qua việc
mượn ao. Nguyên đơn đã xuất trình giấy xác nhận của nhiều nhân chứng về việc
ông Thanh mượn ao thả cá.
Hai là: Việc sử dụng đất của Bị đơn chưa đăng
ký tại Phòng tài nguyên và môi trường huyện Đông Anh-là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận. Việc Bị đơn có tên trong bản đồ 364 lập năm 1996
không được coi là có 1 trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1 điều 50
Luật đất đai. Coi như đất vẫn đứng tên ông Bài nên áp dụng mục a4 khoản 3 Phần
II Nghị quyết số 02 năm 2004 thì trường hợp di sản là quyền sử dụng đất bị
người khác chiếm giữ bất hợp pháp hoặc thông qua thuê, mượn thì các thừa kế có
quyền khởi kiện đòi di sản là cái ao . Việc Bị đơn có tên trong bản đồ hiện
trạng 364 không có nghĩa là đất của Bị đơn vì năm 2007 Bị đơn bị ông Trương
Minh Thư khởi kiện đòi ao và tòa án Nhân dân huyện Đông Anh đã giải quyết vụ
kiện xử buộc ông Thanh phải trả lại 396m2 trong diện tích 1153m2 thửa số 80 nay
chỉ còn lại 776m2 là ao của ông Bài ngày xưa và 1 ít đất của cái ao của ông
Thư.
Ba là: Bị đơn cũng chưa
được UBDN huyện Đông Anh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng chưa nộp
hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì ông Học liên tục đòi ao từ
năm 2001 đến nay.
Thứ tư: Lúc đầu là ao,
đến năm 2004 ông Thanh mới xây tường bao và tiến hành lấp ao sau đó mới xây
nhà. Do đó không thỏa mãn điều kiện khi Bị đơn xây dựng nhà ở không bị nguyên
đơn phản đối. Cho nên việc ông Thanh sử dụng ao và nộp thuế cũng không phải là
căn cứ xác định là người sử dụng đất.
Do vậy không có căn cứ
để chấp nhận yêu cầu của Bị đơn. Việc bản án sơ thẩm công nhận giấy bán ao là
trái pháp luật.
Căn cứ điều 276 Bộ luật
tố tụng dân sự đề nghị HĐXX sửa toàn bộ án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
kiện của các nguyên đơn do ông Học làm đại diện và bác yêu cầu phản tố của bị
đơn vì không có căn cứ.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà
nội, ngày 12 tháng 8 năm 2013
Luật
sư
(đã ký)
Phan
Thị Hương Thủy
Bản chụp của giấy bán ao - căn cứ chủ yếu để phản tố của Bị đơn - nhưng không hề có chữ bán ao do bị mối xông:
Hình ảnh Luật sư Phan Thị Hương Thủy chụp cùng các nguyên đơn của vụ án: