Ngày cập nhật: 08/07/2014
Quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Bùi Quang Voong, bị đơn trong vụ kiện dân sự đòi đất cho mượn với Nguyên đơn là ông Nguyễn Duy Thạch
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
----------------*--------------
QUAN ĐIỂM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP
CHO BỊ ĐƠN –ÔNG BÙI QUANG VOONG
Kính thưa HĐXX sơ thẩm!
Tôi xin trình bày quan điểm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Bùi Quang Voong, bị đơn trong vụ kiện dân
sự đòi đất cho mượn với Nguyên đơn là ông Nguyễn Duy Thạch như sau:
I-Tóm
tắt quá trình vụ kiện:
Năm 2006 ông Nguyễn Duy Thạch
khởi kiện vụ án dân sự đòi đất cho mượn đối với ông Bùi Quang Voong tại tòa án
nhân dân quận Hai Bà Trưng.
Theo Đơn khởi kiện ngày 6/6/2006
Nguyên đơn đòi Bị đơn trả 19m2 tại lối đi ra số 5 Ngõ Gốc đề, Hai Bà Trưng, Hà
Nội.
Tại bản án sơ thẩm số 16/2007/DSST
ngày 28/9/2007 của Tòa án quận Hai Bà Trưng đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Nguyên đơn buộc Bị đơn phải trả lại diện tích 19m2 và để lại diện tích lối đi
và phải trả tiền là 110 triệu đồng ngoài ra còn trả lại 15m2.
Tại bản án phúc thẩm số 41/2012/DSPT
ngày 28/3/2012 của Tòa án Hà Nội hủy án sơ thẩm để giao về cho tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết các vấn đề mà tòa án cấp phúc thẩm không làm được như:
1.
Xem xét các vấn đề mà các đương sự đưa ra cụ thể
là Bị đơn nêu: Xác minh nguồn gốc diện tích đất 50,7m2 mà Bị đơn được cấp giấy
chứng nhận không liên quan đến phần đất của Nguyên đơn mua của bà Vũ Thị Cộng;
Xác định diện tích đất mà nguyên đơn bán cho ông Phạm Văn Phả để chứng minh
Nguyên đơn không bị thiếu đất; Xác định vị trí đất mà Nguyên đơn đòi không phải
vị trí đất mà ông Nguyễn Như Phụng được UBND phường Minh Khai phân công giải
quyết năm 1982
2.
Yêu cầu Nguyên đơn phải cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện: Cụ thể là giấy tờ cho ông Kỷ -bố Bị đơn mượn đất hoặc
giấy tờ mà ông Kỷ thừa nhận là có mượn đất của Nguyên đơn; xác định cụ thể vị
trí mốc giới của diện tích đất tranh chấp nằm trong diện tích 204m2 mua của bà
Vũ Thị Cộng; Nguyên đơn không xác định được diện tích đất cho mượn thực thế là
bao nhiêu m2.
3.
Đưa người có quyền lợi liên quan tham gia tố tụng
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng: Vợ chồng ông Phạm Văn Phả, ông Nguyễn
Văn Vọng.
Trong
quá trình tòa án quận Hai Bà Trưng và Tòa án Hà Nội giải quyết lại vụ án theo
trình tự sơ thẩm.
II- Về kết quả thực hiện các yêu cầu của bản
án phúc thẩm số 41:
+ Tòa án đã xác định lại yêu cầu khởi kiện của
Nguyên đơn và các tài liệu để làm căn cứ đồi đòi đất:
Nguyên
đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đòi Bị đơn phải trả lại diện tích đất mà Nguyên
đơn cho ông Kỷ bố Bị đơn mượn diện tích 19m2 vị trí là lối đi ra số 5 Ngõ Gốc đề.
Căn
cứ đòi đất cho mượn vẫn chỉ là tài liệu có tiêu đề “Trích Biên bản giải quyết nhà đất ngày 10/12/1982 giữa ông Nguyễn Duy
Thạch 244 Minh Khai và ông Bùi Quang Kỷ 246 Minh Khai” đề ngày 31/1/1983.
Trong
quá trình tòa án giải quyết lại vụ án theo quyết định của bản án phúc thẩm số
16 Nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu gì mới.
+
Về phía Bị đơn đã nêu các căn cứ phản bác không chấp nhận yêu cầu đòi đất của
nguyên đơn như đã nêu tại phần đầu.
Đồng thời
bị đơn đã cung cấp cho tòa án tài liệu mới để chứng minh cho việc phản đối của
mình gồm:
-
Các xác nhận của các nhân chứng là các hàng xóm
tại khu vực về việc gia đình ông Voong có lối đi ra số 5 ngõ Gốc đề từ năm 1991
và từ đó không đi ra lối 246 Minh Khai.
-
Các bức ảnh chụp hiện trạng số nhà 246 Minh Khai
là nhà ông Nguyễn Gia Hùng –con trai bà Vũ Thị Cộng, nhà số 244A Minh Khai là nhà
ông Phạm Văn Phả -mua lại đất của ông Thạch và nhà số 244 Minh Khai là nhà ông
Tiến con của ông Thạch và vị trí số 5 ngõ Gốc đề không liên quan đến nhà số 246
Minh Khai.
Với
các tài liệu mới này để chứng minh từ các bản án trước xác định vị trí nhà ông Voong
số 5 ngõ Gốc đề số cũ là 246 Minh Khai là không chính xác.
Căn
cứ vào lời khai của ông Nguyễn Văn Vọng thì phần đất này là ông Vọng bán cho
gia đình ông Vòng từ đó chứng minh diện tích này không thuộc đất của bà Vũ Thị
Cộng bán cho ông Thạch.
Điều
này cũng phù hợp với việc Nguyên đơn không chỉ được mốc giới diện tích 19m2 mà
cho là cho ông Kỷ mượn.
Cũng
phù hợp với lời xác nhận của ông Nguyễn Như Phụng là vị trí đất ông được giao
giải quyết năm 1982 không phải là vị trí mà Nguyên đơn đang đòi Bị đơn.
Từ
căn cứ này để chứng minh Nguyên đơn đi đòi đất nhưng không chứng minh được vị
trí, mốc giới, diện tích đất đòi ở đâu, diện tích bao nhiêu.
Xét về yêu cầu kiện đòi đất cho mượn của
Nguyên đơn:
Bản
án phúc thẩm số 41 đã chỉ ra thiếu sót của bản án sơ thẩm lần thứ nhất là căn cứ
vào tài liệu ““Trích Biên bản giải quyết
nhà đất ngày 10/12/1982 giữa ông Nguyễn Duy Thạch 244 Minh Khai và ông Bùi
Quang Kỷ 246 Minh Khai” đề ngày 31/1/1983” để đòi đất là chưa vững chắc.
Hơn
nữa tài liệu này đã bị Bị đơn phản bác cho là tài liệu giả mạo vì lý do:
-
Trên tài liệu có con dấu của UBND phường Minh
Khai. Trong quá trình tòa án giải quyết đã có văn bản yêu cầu UBND phường Minh
Khai cung cấp tài liệu này thì phường không cung cấp được (công văn số 164 ngày
4/9/2011). Như vậy tài liệu này cũng không được lưu tại phường mà chỉ có một
mình Nguyên đơn có như vậy là không thể là căn cứ vững chắc để xác định có sự
việc giải quyết về lối đi giữa ông Thạch và ông Kỷ vào ngày 10/12/191812 được.
-
Còn chữ ký của ông Khúc Đình Khiên trên dấu với
tư cách là Phó chủ tịch thì tại giấy xác nhận ngày 25/8/2009 chính ông Khiên đã
xác nhận là không phải chữ ký của ông Khiên (trong giấy xác nhận này có chữ ký
của ông Khiên và cũng không giống với chữ ký trong tài liệu Trích do nguyên đơn
cung cấp).
-
Tại Biên bản xác minh do luật sư của Bị đơn ghi
ý kiến của ông Khiên cho biết: thông thường văn bản của phường phải có số
(trong tài liệu này không có số công văn).
-
Ông Nguyễn Như Phụng –có tên trong tài liệu này
thì cũng không xác nhận là có mà yêu cầu đưa bản chính có chữ ký của ông Phụng
thì mới có ý kiến.
Xét
yêu cầu của Bản án phúc thẩm số 41 phải thu thập tài liệu “ Biên bản giải quyết nhà đất ngày 10/12/1982
giữa ông Nguyễn Duy Thạch 244 Minh Khai và ông Bùi Quang Kỷ 246 Minh Khai” thì
thấy đây là yêu cầu đúng vì tài liệu này
mới là quan trọng để làm căn cứ xác định có việc ông Kỷ ký vào đó hay không bởi
trong tài liệu Trích biên bản chỉ ghi nhũng người có tên trong đó “đã ký” chứ
không có chữ ký.
Nhưng
Nguyên đơn không cung cấp được tài liệu này, UBND phường Minh khai cũng không
có, không lưu giữ và cũng không có ý kiến gì đối với tài liệu này mà chỉ trả lời
tòa án là không có.
Căn
cứ điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về “chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì có thật để tòa án dùng làm
căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không để giải quyết đúng đắn vụ án dân sự”. Do tài liệu Trích bị bị đơn
cho là giả mạo và tài liệu Biên bản ngày 10/12/1982 là tài liệu gốc thì đương sự
không cung cấp được và tòa án cũng không thu thập được nên coi như không có căn
cứ để chứng minh cho việc đòi đất cho mượn của nguyên đơn đối với bị đơn là có
căn cứ và hợp pháp.
Giả
sử có được tài liệu này (Biên bản ngày 10/12/1983) thì với nội dung ở trên cũng
không thể hiện việc ông Kỷ xác nhận có mượn đất (bao gồm lối đi và sân ) của
ông Thạch được mà chỉ thể hiện thỏa thuận của hai bên về việc tạo lối đi cho
ông Kỷ và diện tích sân để ông Kỷ sử dụng không được xây dựng, cho, bán cho ai.
Ngoài
ra Nguyên đơn cũng không chỉ được mốc giới của diện tích 19m2 theo tài liệu
trích Biên bản ngày 31/1/1983 là ở vị trí nào hiện nay.
Căn
cứ điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự quy định nghĩa vụ chứng minh như sau: Tại khoản
1 quy định: Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp. Như vậy nguyên đơn phải cung cấp căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
của mình, nếu không cung cấp được thì phải chịu hậu quả của việc không cung cấp
được đó (khoản 4). Như vậy bản án phúc thẩm của Tòa án Hà Nội hủy bản án sơ thẩm
để giải quyết lại yêu cầu Nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu Bị đơn mượn đất
nhưng không cung cấp được nên không được tòa án chấp nhận.
Theo
quy định tại khoản 2 điều luật nêu trên bị đơn cũng phải cung cấp chứng cứ để
bác bỏ đối với yêu cầu kiện của nguyên đơn. Trong quá trình tòa án giải quyết bị
đơn đã cung cấp chứng cứ chứng minh nguồn gốc diện tích 50,7m3 được UBND quận
Hai Bà trưng cấp giấy chứng nhận gồm:
-
Bản án số 50/PTDS ngày 22/3/1991 của Tòa án Hà Nội
giải quyết vụ kiện đòi nhà cho thuê của bà Vũ Thị Cộng với ông Bùi Quang Kỷ chứng
minh diện tích 17m2 là căn nhà cấp 4 xây trên đất của bà Cộng đã được bà Cộng
cho ông Kỷ.
-
Xác nhận của ông Nguyễn Văn Vọng bán cho gia đình
ông Voong 29,5m2 đất không thuộc phần đất của bà Cộng bán cho ông Thạch. Tại
Biên bản lấy lời khai ngày 8/9/2011 ông Vọng có ý kiến: tháng 5/1991 tôi có nhượng lại 2 khổ đất : Vị trí đất là 2 khổ: 1 khổ về
phía đông, 1 khổ về phía Tây vì ở giữa có cái bếp của ông Voong làm trước đó”.
Khổ 1 diện tích 29,5m2 trên có bếp, chuồng lợn, chuồng gà cho gia đình ông
Voong. Khổ 2 khoảng 10m2 là phần diện tích hiện nay đang tranh chấp. Vì tôi ở
đây từ trước nên tôi biết lối đi cũ của cụ Kỷ nay chị Liên đã làm nhà trên đó”.
-
Việc gia đình ông Voong có mua thêm đất của ông
Vọng được ông Nguyễn Gia Hùng-là con trai của bà Vũ Thị Cộng hiện đang ở tại số
246 Minh Khai xác nhận tại Biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2011 của tòa án Hà
Nội như sau: “Cụ Kỷ có mua thêm 1 phần đất
cạnh đất của nhà tôi. Nhưng phần đất cụ Kỷ mua thêm đó tách rời phần đất của
ông Thạch”. Tuy ông Hùng có không nói là mua của ông Vọng nhưng cũng xác nhận
là ngoài đất của mẹ ông cho cụ Kỷ thì cụ Kỷ còn mua thêm đất.
-
Trong Biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn Vọng
với tòa án Hà Nội ngày 8/9/2011 còn mô tả đặc điểm phần đất bán cho gia đình
ông Voong “có cống ngầm dưới lòng đất”).
-
Chi tiết này phù hợp với tài liệu do Bị đơn cung
cấp là “Giấy thỏa thuận cam kết” có nội dung: “ Tên tôi là Hoàng Văn Tiến địa chỉ 244 Minh khai hiện đang xây dựng một
căn hộ liền kề với nhà ông Bùi Quang Voong. Trong quá trình xây dựng có vướng
đường ống cấp nước và đường cống thoát nước nhà ông Voong. Qua thỏa thuận ông
Goong đồng ý cho tôi được di chuyển đường ống cấp nước và đường ống thoát nước
thải ra vị trí mới thuận lợi …Tôi cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho gia
đình ông Goong khi gia đình ông xây dựng sau này và không mở cửa sổ sang phía
nhà ông Goong”. Căn cứ vào hồ sơ thì thấy thời điểm ông Thạch chia đất cho
3 con: con gái Hoàng Thị Bích là ở phần giáp diện tích lối đi nhà ông Voong (phần
đất mua của ông Vọng) và chỉ có duy nhất phần này mới phù hợp với cam kết
“không mở cửa sổ “ sang phía nhà ông Voong và dưới đất là cống ngầm Trong Biên
bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn Vọng với tòa án Hà Nội ngày 8/9/2011 là phần
đất bán cho gia đình ông Voong “có cống
ngầm dưới lòng đất”).
-
Tại phiên tòa Nguyên đơn cũng không giải thích
được vị trí đất có cống ngầm mà ông Tiến khi xây nhà đã xin phép cho ông Voong
cho di chuyển đi.
Còn bên
Nguyên đơn không chứng minh được vì sao diện tích đất nguyên thủy mua của bà Cộng
chỉ có 204m2.
Theo hồ
sơ của tòa án thì thấy tòa án đã đi xác minh tại nhà ông Phạm Văn Phả theo Biên
bản lấy lời khai ngày 19/12/2011 ông Phả khai ngôi nhà ông đang ở và được UBND
quận Hai Bà Trưng cấp giấy chứng nhận là có nguồn gốc mua của ông Thạch năm 1978 diện tích đúng như cấp sổ đỏ là
70,4m3. Theo như ảnh do Bị đơn cung cấp thì nhà ông Phả mang số 244A bên cạnh
nhà số 244 là của ông Thạch. Tại giai đoạn tòa án Hà Nội giải quyết lại có đưa
vợ chồng ông Phả vào tham gia tố tùng và tại Biên bản lấy lời khai ngày
11/3/2014 thì ông Phả cũng vẫn giữ nguyên lời khai trước đây không thay đổi.
Như vậy
trừ diện tích đất bán cho ông Phả thì diện tích đất Nguyên đơn còn lại 154m2 (nếu
cộng thêm 19m2 đất đòi của ông Voong thì diện tích sẽ không phải 204m2 mà là
278m2). Do đó Nguyên đơn không co căn cứ để đòi Bị đơn trả đất Tại giai đoạn
tòa án Hà nội giải quyết vụ án Nguyên đơn đã không yêu cầu tòa án xem xét thẩm
định tại chỗ như vậy là không bình thường vì thông thường nguyên đơn phải yêu cầu
tòa án xem xét thẩm định. Điều này chứng tỏ nguyên đơn cũng thấy khó có căn cứ để chứng minh diện
tích hiện đang đòi là vị trí ở số 5 ngõ Gốc đề và chẳng liên quan gì đến số 246
Minh Khai.
Theo
yêu cầu của Bị đơn ngày tòa án Hà nội đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, tại
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ có chữ ký của các đương sự đã ghi rõ: vị trí
diện tích đất tranh chấp là ở địa chỉ 5 ngõ Gốc đề không phải 246 Minh Khai, diện
tích đất tranh chấp là 18,04m2.
Căn cứ
khoản 6 điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự thì Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ
là chứng cứ để chứng minh diện tích tranh chấp không phải ở địa chỉ 246 Minh
Khai và không thể là đối tượng giải quyết theo biên bản ngày 10/12/1982 vì sau
năm 1991 thì gia đình ông Voong mới sử dụng diện tích này là do mở đường nên đã
phá bức tường làm ranh giới giữa phần đất mua lại của ông Vọng với đất của Công
ty xây dựng số 1. Vị trí này cũng đã được xác nhân chứng là những người dân sống
lâu năm tại địa phương xác nhận gia đình ông Voong từ năm 1991 mới sử dụng lối
đi ra số 5 ngõ Gốc đề.
III-
Đề nghị của luật sư
Căn cứ
vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa cho thấy
tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện các yêu cầu của bản án phúc thẩm số 41 đặt ra.
Và trên cơ sở các tài liệu đó tôi đề nghị HĐXX bác không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện đòi đất cho mượn của nguyên đơn đối với bị đơn vì không có căn cứ, giữ
nguyên hiệu lực của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích của Bị
đơn tại số 5 ngõ Gốc đề mà được UBDN quận Hai Bà Trưng cấp cho gia đình ông
Voong.
Hà nội ngày 19 tháng 5 năm
2014.
Luật sư
(Đã ký)
Phan Thị Hương Thủy
Những hình ảnh tại phiên tòa ngày 29/5/2014:
Ông Voòng chụp ảnh cùng luật sư Phan Thị Hương Thủy - người luật sư tâm huyết đã cùng ông theo đuổi vụ kiện từ năm 2008
Gia đình và những người bạn cựu chiến binh đã từng vào sinh ra tử cùng ông Voòng tham dự phiên tòa để chứng kiến thời điểm công lý được thực thi
Biên bản xác minh ngày 25/8/2009 - Chứng cứ quan trọng của vụ án