Ngày cập nhật: 25/07/2011
Theo Công Văn số 402/2007/CVPT ngày 13/02/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao gửi Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội về việc cử luật sư bào chữa thì tôi - Luật sư PhanThị Hương Thủy, thuộc Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội) được cử làm luật sư bào chữa cho hai Bị cáo là Trần Văn Đạo, Hoàng Văn Thi trong vụ án "Giết người" theo tiết n khỏan 1 điều 93 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa Phúc thẩm- TAND tối cao.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
--------------*---------------
QUAN ĐIỂM CỦA LUẬT SƯ
bào chữa cho các Bị cáo Trần Văn Đạo, Hoàng Văn Thi can tội "Giết người"
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Theo Công Văn số 402/2007/CVPT ngày 13/02/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao gửi Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội về việc cử luật sư bào chữa thì tôi - Luật sư PhanThị Hương Thủy, thuộc Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội) được cử làm luật sư bào chữa cho hai Bị cáo là Trần Văn Đạo, Hoàng Văn Thi trong vụ án "Giết người" theo tiết n khỏan 1 điều 93 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa Phúc thẩm- TAND tối cao.
Thưa HĐXX, qua nghiên cứu tài liệu và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua tham gia bào chữa cho các Bị cáo Đạo, Thi và Trần Văn Xuân tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, qua diễn biến tại phiên tòa Phúc Thẩm hôm nay, tôi thấy về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là không đúng và hình phạt áp dụng cho các bị cáo Đạo và Thi là quá nặng, đồng thời việc kháng cáo của các Bị cáo này là hoàn toàn có căn cứ.
Tại bản án số 528/2006/HSST ngày 8+11/12/2006 của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội tuyên phạt Trần Văn Đạo 12 năm tù, Hoàng Văn Thi 11 năm tù.
Hôm nay tại phiên tòa, sau khi nghe các bị cáo trình bày việc kháng cáo của mình, tôi có quan điểm như sau: Tuy Bị cáo Đạo và Thi chỉ có yêu cầu là đề nghị HDXX giảm nhẹ mức hình phạt, nhưng theo quan điểm của tôi việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên các bị cáo trên can tội giết người theo tiết n, khoản1 là không đúng.
1.Thứ nhất: Về Nội dung kháng cáo:
Chứng minhviệc kháng cáo của các Bị cáo là có căn cứ
Về ý thức chủ quan: Việc đánh dẫn đền cái chết của ông Nguyễn Văn Chắt là không có chủ định và không mong muốn. Nếu như các bị cáo này có ý tước bỏ quyền sống của ông Chắt thì không chỉ đơn giản dùng những cái đạp chân và đá như đã trình bày theo cáo trạng và theo hồ sơ vụ án. Họ sẵn sàng dùng phương tiện và thủ đoạn để tước bỏ mạng sống của ông Chắt một cách dễ dàng đơn giản và nhanh gọn cụ thể dùng súng, dao, gậy…?
Rõ ràng trong ý thức của hai bị cáo trên là hoàn toàn không có ý muốn tước bỏ tính mạng ngừơi khác.
Nếu như đơn giản chỉ là những hành vi đấm đá đơn lẻ thì không thể dẫn đến hậu quả chết người được. Theo giám định pháp y thì ông Chắt chết do bị mất máu cấp không hồi phục; gẫy xương sườn, đầu, bụng, tay chân đều bị tày sát và có máu tụ( BL……………………). Như vậy từ kết luận giám định pháp y trên thì việc ông Chắt chết phải là sự cộng dồn và tổng hợp của rất nhiều hành vi của rất nhiều người. Mặt khác việc Đạo và Thi đá ông Chắt trong tư thế ngồi bó gối và cú đá của Đạo, Thi thì không đủ lực để làm ông Chắt chết được ( theo cáo trạng thì Đạo dùng chân phải đạp vào ngực phải của nạn nhân) việc đá này trong tư thế song song và cùng phía nên sẽ rất yếu vì không có đà và lực tác động vào cơ thể của ông Chắt là rất nhỏ.
Về Nhân thân
Bị cáo Hoàng Văn Thi đã thành khẩn khai báo, bản thân không có tiền án tiền sự. Hơn nữa lại là trụ cột trong gia đình có con nhỏ 3 tuổi. Hoàn cảnh rất khó khăn, trình độ vănhóa 1/12- mù chữ,nên khả năng nhận thức mức độ nguy hiểm và pháp luật là rất kém.
Bị cáo Trần Văn Đạo đã thành khẩn khai báo, bản thân không có tiền án tiền sự, trình độ văn hóa 4/12, là trụ cột gia đình, có con nhỏ 1 tuổi. Bản thân Đạo đã biễt khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho gia đình nan nhân số tiền 5triệu đồng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào các khoản, điểm để tuyên mức án đối với Hoàng Văn Thi là 11 năm (áp dụng điểm p khoản 1 điều 46 BLHS - thành khẩn khai báo và điểm k khoản 1 điều 46 là phạm tội do lạc hậu (mù chữ).Trần Văn Đạo là 12 năm tù theo điểm b,p khoản 1 điều 46 BLHS (người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại,khắc phục hậu quả- điểm b; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - điểm p)
Theo quan điểm của tôi thì Bị cáo Trần Văn Đạo cũng được áp dụng khoản 2 điều 46 vì theo bản cáo trạng và theo bản án, và tại phiên tòa cấp sơ thẩm thì các bị cáo này đã được người đại diện cho người bị hại xin giảm án hơn nữa chính ông Chắt- người bị hại cũng là người có lỗi vị chính ông là nguyên nhân dẫn đến sự việc nhầm tưởng trộm và bản thân ông trong đêm khuya vắng vào nhà người khác và lại nhầm đến 2 lần, tại bản cáo trạng thì có trình bày ông Chắt trong trang thái say rượu, nhưng theo giám định pháp y thì trong máu không có nồng độ cồn ( BL…………………………), điều này chính tỏ trong tiềm thức ông Chắt có ý nghĩ không tích cực. Theo hướng dẫn tại Mục 5 về các tình tiết giảm nhẹ TNHS ( điều 46) của Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999 thì Toà án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phảighi rõ trong bản án… và các tình tiết đó là: Người bị hại cũng có lỗi; người đại diện của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó Bị cáo Đạo ngoài việc được áp dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm b, p khoản 1điều 46 thì còn được áp dụng khoản 2 điều 46.
Về việc áp dụng tiết n khoản 1 điều 93
Các bị cáo này đã bị tuyên về tội giết người có tính chất côn đồ là không đúng vì:Về mặt lý thuyết khoa học hình sự xác định: Giết người có tính chất côn đồ là trường hợp giết người có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng của người khác; giết người không có nguyên cớ hoặc giết người với lý do nhỏ nhen; giết người một cách hung hăng, tàn bạo, cấu kết chặt chẽ từ trước.
Căn cứ vào kết quả điều tra thì hành vi của các bị cáo không thoả mãn vì không thể hiện sự hung hãn cao độ ( chỉ đạp và đá), hành vi là xuất phát do nhầm tưởng ông Chắt là trộm sau khi đã nghe thấy tiếng tri hô của nhân dân trong 1 không gian thời gian là nửa đêm. Mặt khác nếu chỉ căn cứ vào các tình tiết là nhiều người đến đánh ông Chắt mà kết luận là côn đồ là không thoả đáng.
Theo quan điểm của tôi thì hành vi của các bị cáo không thể coi là tính chất côn đồ xét về mặt thực tiễn thì hành vi côn đồ chỉ khi người phạm tội đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống có hành vi ngang ngược, bất chấp sự can ngăn của người khác hay chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống nhưng cố tình gây sự để phạm tội. Căn cứ các tình tiết của vụ án thì không hề có những biểu hiện này. Sự việc đấm đạp của các bị cáo chỉ vì nghĩ nạn nhân là kẻ trộm và cũng chỉ có đơn lẻ 1 hành vi chứ không hề có việc đấm đạp liên tục và cũng không hề có sự việc đã có người can ngăn mà vẫn thực hiện.
Như trên tôi đã trình bày thì tất cả các hành vi trên không đủ điều kiện để thỏa mãn tính côn đồ bởivì bản thân chính hành vi ấy không chứa đựng khả năng làm chết người. Nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông Chắt là do lối đánh hội đồng. Nếu như chỉ căn cứ vào cú đạp cuối cùng của Thi và Đạo để kết luận đó là coi thường tính mạng người khác là không thỏa đáng. Hơn nữa theo hướng dẫn trên thì phải đồng thời đủ hai điều kiện có tính chất hung hãn cao độ, coi thường tính mạng người khác….thì mới có thể kết luận đó là có tính chất côn đồ. Việc Thi và Đạo có hành vi ấy cũng chỉ do quá bức xúc với tệ nạn trộm cắp mà thôi.
Về việc áp dụng điều luật
Theo điều khoản 2 điều 3 BLHS quy định về nguyên tắc xử lý thì "Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần địa vị xã hội"
Theo nguyên tắc trên thì việc các bị cáo cùng một tội danh, cùng được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điều 46 là tiết b,p khoản 1và khoản 2 thì phải chịu mức án ngang bằng nhau. Thế nhưng Trần Văn Xuân chỉ chịu mức án 9 năm tù , còn Thi và Đạo lại là 12 và 11 năm tù? Như thế là trái với nguyên tắc xử lý trong xét xử.
Như vậy là trái nguyên tắc xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự, nếu như theo quy định trên thì: Các Bị cáo cùng bị tuyên phạt ở cùng một tội danh, cùng được áp dụng các tình tiết giống nhau, trong cùng một khoản điều giống nhau thì hình phạt phải ngang bằng nhau - Do đó Bị cáo Đạo, Thi cũng chịu chung mức hình phạt là 9 năm tù như Xuân
Tại điều 45 BLHS quy định căn cứ quyết định hình phạt: " Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự"
Như vậy tại phiên xét xử sơ thẩm và tại bản án sơ thẩm đã thể hiện việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án là không toàn diện và thiếu và trái với nguyên tắc xét xử. Vì vậy tôi đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt dưới mức mà Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên. Việc giảm này là phù hợp và cũng thể hiện tính nhân đạo của đường lối xét xử trong hình sự và của Nhà nước, tạo điều kiện để các bị cáo tái hòa nhập cộng đồng trở thành những công dân tốt cho xã hội.
2.Thứ hai về tội danh:
Theo bản án cấp sơ thẩm tuyên thì các bị cáo Đạo và Thi can tội giết người theo tiết n khoản1 điều 93 BLHS
Tôi không đồng ý với quan điểm này vì hành vi của các bị cáo không cấu thành dấu hiệu của tội giết người
*Về mặt chủ quan của tội phạm: tội giết người được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, cũng có trường hợp do lỗi cố ý gián tiếp. Nhưng dù là lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải thỏa mãn điều kiện nhằm mục đích phải là tước bỏ tính mạng của người khác.
Như vậy ý thức chủ quan của các bị cáo phù hợp với hành vi của các bị cáo không thoả mãn dấu hiệu cấu thành tội giết người quy định tại điều 93 BLHS.Theo hồ sơ cho thấy các bị cáo không hề có ý định giết ông Chắt, thể hiện ở các mặt sau đây:
- Sẽ không có sự việc ông Chắt chết nếu ông Chắt không đi nhầm vào nhà người khác và nếu không có tiếng kêu chộm của những người dân trong làng lúc đêm vắng đó. Việc đánh ông Chắt không nhằm mục đích tước bỏ mạng sống của ông Chắt và việc ông Chắt bị tử vong là ngoài mong muốn của các bị cáo. Việc này thể hiện qua hồ sơ cụ thể là lời khai của Hoàng Văn Thi (tại các bút lục 197, 198, 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205), Trần Văn Đạo (BL 213, 214, 217, 218), phù hợp với lời khai của các nhân chứng như: Hoàng thị Tạo (BL 244-245) Hoàng Văn Tứ (BL 315, 316, 317), Nguyễn Văn Lan (BL 276, 277), thể hiện qua lời khai của các bị cáo Đạo và Thi.
- Đạo và Thi không hề có sự chuẩn bị về phương tiện: Dao, súng, gậy… Hơn nữa giữa nạn nhân và các bị cáo không có hiềm khích hay mâu thuẫn gì. Chỉ 1 lẽ đơn giản là các bị cáo nhầm tưởng ông Chắt là trộm, và nếu không có sự việc ông Chắt đi nhầm vào nhà dân (trước là vào nhà Dưỡng sau là vào nhà ông Lê) và khi bị tra hỏi đuổi trộm thì nạn nhân lại không xưng danh. Nếu không có tổng hợp các điều kiện khách quan này thì sẽ không xảy sự việc chết người trên.
Như vậy rõ ràng rằng cái chết của ông Chắt xảy ra là ngoài ý muốn của các bị cáo.
Một dấu hiệu nữa của mặt khách quan của tội giết người là: Để truy cứu trách nhiệm hình sự của điều 93 thì phải xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra.
Xét trong mối quan hệ nhân quả thì hành vi của các bị cáo không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả chết người nêu trên. Tại phiên tòa khi được hỏi thì các bị cáo cũng cho rằng hành vi đánh của các bị cáo không thể dẫn đến việc ông Chắt bị chết. Điều này phù hợp với kết quả điều tra là mỗi bị cáo chỉ đánh 1 cái, đạp 1 cái: Bị cáo Thi đạp 1 cái vào ngực trái, bị cáo Đạo đạp 1 cái vào ngực phải. Nhưng để giập nội tạng thì không chỉ 1 cái đạp mà gây ra. Đó là chưa nói đến tư thế đạp phải đạp đúng tư thế thì mới gây ra giập gan tụy.
Vì theo hồ sơ và theo kết luận giám định pháp y thì ông Chắt chết do bị vật tày tác động vào bụng làm giập tụy và làm mất máu không hồi phục được. Theo hồ sơ thể hiện khi được nhân dân đưa về nhà thì ông Chắt tình trạng bình thường, sau đó mới được gia đình đưa đi cấp cứu tại Sóc Sơn và sau đưa lên Hà Nội và đến ngày 4/12/2005 mới tử vong.
Qua kết luận giám định thì xác định như sau: khám ngoài thấy các vết thâm và chày sước ở vùng đầu, mặt,cổ; ngực, bụng , lưng, mông; hai tay. Khám trong thì thấy giập, rách, đứt mạc treo đại tràng và động mạch treo, dập vỡ tuỵ gây chảy máu ra ổ bụng. Chứng tỏ rằng phải tổng hợp rất nhiều hành vi của rất nhiều người thì mới dẫn đến hậu quả chết người. Mặt khác hồ sơ thể hiện bị cáo Thi đạp vào bụng nạn nhân khi nạn nhân trong tư thế ngồi bó gối thì không thể tác động mạnh vào bụng được. Nhưng vấn đề này chưa được cơ quan điều tra làm rõ. Như vậy nếu chỉ những hành vi của các bị cáo thể hiện tại hồ sơ thì không thể là nguyên nhân trực tiếp làm ông Chắt chết.
Nguyên nhân chết của nạn nhân nói chung là chưa làm rõ mà có thể suy đoán: nạn nhân có tuổi, lại là thương binh, nửa đêm mùa đông ở ngoài đường, bụng đói, không có đủ năng lượng để chịu được đói rét và bị đánh tuy là không đau và có bị ngã do trời tối nên đã giảm sức khoẻ và dẫn đến tử vong. Có nghĩa là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân theo hồ sơ thể hiện thì không phải là do bị đánh gây nên mà tổng hợp nhiều lý do chứ nếu khẳng định nguyên nhân chết là do bị các bị cáo đánh thì tôi cho là chưa đủ cơ sở và gượng ép.
Từ những căn cứ nêu trên cho thấy hành vi của các bị cáo không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm giết người, việc đánh ông Chắt dẫn đến hậu quả chết là không có chủ định và mong muốn. Có chăng là chỉ cố ý với hậu quả gây thương tích vô ý với hậu quả chết người
* Về mặt khách quan của tội phạm : Mặt khách quan của tội giết người thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền sống của người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác được thể hiện bằng phương thức : Bắn, chém , đâm …đấm đá.
Phương tiện như: súng, dao, gậy, chân, tay…
Qua nghiên cứu hồ sơ cho thấy các bị cáo không hề có ý định tước bỏ tính mạng của ông Chắt mà chỉ cho là trộm nên đánh để dọa. Nếu chỉ dọa thì không thể dẫn đến chết được. Còn vì sao ông Chắt chết thì luật sư sẽ phân tích ở sau. Đó cũng là do nhận thức hạn chế nên mới có việc đánh trộm. Vì hành vi của các bị cáo này chỉ được thực hiện bằng phương thức đấm và đạp (cũng chỉ đơn chiếc chứ không thể hiện tính điên cuồng hung hẵn cố tình tước đoạt mạng sống của người bị nghi là trộm. Điều này giải thích là vì chưa ai kêu mất trộm đồ vật gì nên cũng không phải là đòn thù do tức giận. Những hành vi của các bị cáo đã được cơ quan điều tra làm rõ. Hành vi này không thể hiện tính chất nguy hiểm và trực tiếp dẫn đến cái chết của ông Chắt. Tại phiên tòa các bị cáo cũng xác định là hành vi đánh của các bị cáo không thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tử vong của nạn nhân mà còn do nhiều nguyên nhân khác sẽ phân tích dưới đây. Tuy hành vi của các bị cáo (đánh trộm mà không bắt để giải đến chính quyền giải quyết xử lý theo pháp luật) cũng là trái pháp luật nhưng là do hạn chế về nhận thức.
Về mặt lý luận: Như vậy dấu hiệu bắt buộc của tội giết người phải là nhằm tước bỏ quyền sống của người khác thì mới phạm tội này. Nếu chỉ ý thức làm cho nạn nhân bị thương nhưng vì vết thương nặng mà dẫn đến chết người thì người phạm tội có thể chỉ bị kết tội về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Và trong Bộ luật hình sự đã quy định những dấu hiệu của tội này theo quy định tại điều 104, mức hình phạt của tội này thấp hơn nhiều so với tội giết người.
3. Thứ ba: Đề nghị cụ thể của Luật sư
1. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Trần Văn Đạo và Hoàng Văn Thi- giảm nhẹ mức hình phạt cho 2 Bị cáo
2. Đề nghị thay đổi tội danh không phải là tội giết người theo quy định điều 196 BLTTHS về Giới hạn của việc xét xử như sau: " Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khỏan khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng 1 điều luật hoặc về 1 tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố" ví dụ như là tội phạm theo quy định tại điều 104 BLHS.
3. Nếu không chuyển tội danh đề nghị HĐXX áp dụng mức án cho các Bị cáo theo quy định đúng nguyên tắc xử lý của BLHS quy đinnh tại điều 3 - giảm mức hình phạt cho Thi và Đạo bằng với mức hình phạt mà Xuân đã được tuyên là 9năm tù, để các Bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng, thể theo nguyên tắc nhân đạo trong xét xử.
Xin trân trọng cảm ơn
Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2007
Luật sư
Phan Thị Hương Thuỷ